
- Nghiên cứu cơ chế tạo hệ thống thiết bị gảng dạy thực hành về điều khiển động cơ không đồng bộ 3 pha kết hợp tự động điều khiển bằng PCL và biến tần trong đào tạo nghề điện công nghiệp
- Nghiên cứu khả năng ứng dụng công nghệ CORS trong quan trắc dịch động bãi thải
- Vay vốn ngang hàng (peer-to-peer lending): kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
- Tiếng Khơ Mú ở Việt Nam
- Nghiên cứu cơ sở khoa học nhằm phân loại đánh giá xếp hạng và quản lý bộ sưu tập mẫu vật hệ thống Bảo tàng thiên nhiên Việt Nam
- Những giải pháp nâng cao chất lượng công khai kết quả kiểm toán và kết quả thực hiện kết luận kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước
- Nghiên cứu bệnh đen thân trên cá rô đồng (Anabas testudineus) nuôi thâm canh và các biện pháp phòng trị
- Trường ứng suất kiến tạo hiện đại lãnh thổ Việt Nam (Dự báo đánh giá ảnh hưởng)
- Ứng dụng CNTT xây dựng quy trình quản lý vận hành Trung tâm hành chính công tỉnh Yên Bái
- Nghiên cứu cải tiến và ứng dụng công nghệ mới trong nghề câu cá ngừ đại dương ở vùng biển miền Trung và Đông Nam bộ-Tập số liệu khai thác thí nghiệm trên biển



- Kết quả thực hiện nhiệm vụ
4.2023.03
06/GCN-SKHCN
Nghiên cứu thực trạng và định hướng phát triển cây Quế (Cinnamomum cassia) tại tỉnh Bắc Kạn
Viện Nghiên cứu sinh thái và môi trường Rừng
UBND Tỉnh Bắc Kạn
Tỉnh/ Thành phố
Tiến sĩ Hà Văn Năm
1. TS Hà Văn Năm - Chủ nhiệm đề tài 2. ThS. Trương Quang Trí - Thư ký đề tài 3. TS Lê Văn Thành - Thành viên chính 4. TS Đặng Quang Hưng - Thành viên chính 5. ThS. Nguyễn Xuân Đài - Thành viên chính 6. ThS Phạm Ngọc Thành - Thành viên chính 7.ThS Nguyễn Thị Oanh - Thành viên chính 8. ThS Nguyễn Thùy Mỹ Linh - Thành viên chính 9. KS Đoàn Thanh Tùng - Thành viên 10. KS Hà Đình Long - Thành viên
Trồng trọt
3/2022
2/2024
2024
Viện Nghiên cứu sinh thái và môi trường rừng
231
Quế (Cinnamomum cassia) là một trong những loài cây lâm sản ngoài gỗ có giá trị cao, các sản phẩm từ cây Quế được sử dụng khá phổ biến và rộng rãi trên thị trường quốc tế, là loài cây trồng có giá trị thương mại lớn, chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Ở Việt Nam Quế được trồng ở ba vùng chính gồm: vùng núi Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ. Trong đó, trung tâm Quế của vùng núi Bắc Bộ là tỉnh Lào Cai và Yên Bái; trung tâm Quế của vùng Bắc Trung Bộ là Thanh Hóa và Nghệ An; Trung tâm Quế của vùng Nam Trung Bộ là Quảng Nam và Quảng Ngãi, Phạm Hoàng Hộ (1999). Tuy nhiên,do giá trị kinh tế cao mang lại nên những năm gần đây nhiều tỉnh đã mở rộng diện tích rừng trồng Quế, điển hình như tại tỉnh Bắc Kạn theo thống kê của Chi cục Kiểm lâm tính đến hết năm 2021 toàn tỉnh có trên 4.700 ha Quế được gây trồng thành rừng, diện tích trồng Quế luôn được mở rộng qua từng năm do người dân ồ ạt trồng Quế, chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ các cây có hiệu quả kinh tế thấp hơn như Keo, Mỡ, Cam quýt sang cây Quế. Chính vì việc phát triển trồng cây Quế quá nhanh nên gây rất nhiều khó khăn trong công tác quản lý, quy hoạch, định hướng của các cơ quan ban ngành tỉnh. Nguyên nhân chủ yếu do chưa có các nghiên cứu đánh giá về thực trạng gây trồng từ khâu quản lý và chọn lọc nguồn giống đến gây trồng, khai thác, chế biến, bảo quản và thị trường tiêu thụ. Ngoài ra vấn đề chất lượng vỏ Quế tại tỉnh Bắc Kạn chưa được kiểm chứng về năng suất vỏ, hàm lượng cũng như chất lượng tinh dầu Quế trồng trên địa bàn so với chất lượng vỏ Quế trồng tại trung tâm vùng sinh thái chính là Yên Bái và Lào Cai.
Đề tài: “Nghiên cứu thực trạng và định hướng phát triển cây Quế (Cinnamomum cassia Presl) tại tỉnh Bắc Kạn” được thực hiện nhằm mục tiêu đưa ra được cơ sở khoa học cho việc định hướng gây trồng phát triển giống Quế cho năng suất cao, chất lượng tinh dầu tốt, nâng cao thu nhập cho người trồng quế, góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội tại một số vùng trồng quế trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.
Kết quả thực hiện đề tài: Thực trạng sản xuất Quế của tỉnh Bắc Kạn (các huyện Chợ Mới, Chợ Đồn, Na Rì, TP Bắc Kạn, Bạch Thông hiện có điều kiện sinh thái phù hợp cho cây Quế phát triển; toàn tỉnh có 20 cơ sở sản xuất giống Quế quy mô từ 10.000 đến 1.000.000 cây con mỗi năm, nguồn giống chủ yếu lấy từ Yên Bái và Lào Cai; kỹ thuật trồng: Mật độ trồng chưa thống nhất từ 1.600 - 4.400 cây/ha, mật độ thấp hơn so với tại Yên Bái; tỉa thưa rừng Quế muộn từ 7 tuổi trở lên, mật độ để lại cao, khai thác trắng khi rừng đang trong giai đoạn sinh trưởng tốt 10-12 tuổi làm giảm năng suất; Chế biến: có 64 cơ sở thu mau chế biến tại tỉnh, quy mô từ 1,5 - 700 tấn vỏ mỗi năm, các cơ sở chế biến chủ yếu mua quế thô, sơ chế bằng phơi khô rồi xuất bán, chưa có cơ sở chế biến các sản phẩm Quế cao cấp, chưa có chế biến sâu; thị trường tiêu thụ: Các cơ sở thu mua đều là cơ sở trung gian bán cho các tư thương tại các tỉnh khác, chưa có công ty xuất khẩu trực tiếp vì vậy giá thành thấp và không ổn định;); Điều tra tuyển chọn cây trội Quế tại tỉnh Bắc Kạn (đã chọn được 140 cây trội: Huyện Chợ Đồn chọn được 75 cây trội 23 và 25 năm tuổi, tại huyện Chợ Mới chọn được 18 cây trội 15 và 30 năm tuổi, tại TP Bắc Kạn chọn được 30 cây trội 11 năm tuổi, tại huyện Bạch Thông chọn được 8 cây trội 10 năm tuổi, tại huyện Na Rì chọn được 9 cây trội 9 năm tuổi. Trong 140 cây trội Quế, đã có 130 cây được Chi cục Kiểm lâm tỉnh Bắc Kạn công nhận nguồn giống cây trội); tổ chức 01 cuộc hội thảo về phát triển Quế và quản lý nguồn giống Quế đã chọn tại Bắc Kạn (55 đại biểu); xây dựng 01 phóng sự về kết quả chọn giống cây trội Quế tại Bắc Kạn.
04/2024 Quyển số 01-STD-QLCNCN