
- Nghiên cứu xây dựng phổ biến hướng dẫn áp dụng mô hình quản trị điểm hạn chế (TOC) để nâng cao năng suất cho các doanh nghiệp Việt Nam
- Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ phân lập nhân giống và nuôi trồng thử nghiệm một số loại nấm dược liệu trên địa bàn tỉnh Ninh Bình
- Hệ lai: Mô hình mean-field và phương pháp số
- Hiệu lực của cơ chế truyền dẫn chính sách giám sát an toàn vĩ mô tại Việt Nam
- Hợp tác nghiên cứu thành phần vật chất đề xuất quy trình công nghệ chế biến định hướng phương pháp khai thác và bảo vệ môi trường mỏ đất hiếm Nậm Xe tỉnh Lai Châu Việt Nam
- Nghiên cứu cơ sở khoa học về các cơ chế tự nguyện linh hoạt về môi trường nhằm thực thi những cam kết môi trường trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
- Hoàn thiện công nghệ sản xuất phụ gia đa năng nhằm tiết kiệm năng lượng trên cơ sở các hợp chất có chỉ số khúc xạ mol cao qui mô 5000 lít/năm
- Nghiên cứu thiết kế chế tạo hệ thống chuẩn thang độ nhạy độ roi (A/lx) với độ không đảm bảo đo U ≤ 1%
- Nghiên cứu đặc điểm phân bố, hình thái làm tổ của các loài ong lấy mật và chất lượng của mật ong rừng tại bán đảo Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, đề xuất giải pháp quản lý, bảo tồn và phát triển các quần thể ong lấy mật tại bán đảo Sơn Trà
- Xây dựng hệ thống hỗ trợ chuẩn đoán tư vấn bệnh răng miệng trên nền tảng thiết bị di động và ứng dụng tại một số cơ sở khám chữa bệnh trên địa bàn thành phố Hà Nội



- Ứng dụng kết quả thực hiện nhiệm vụ
2017-02-757/KQNC
Sản xuất thử 2 giống đậu tương HL 07-15 và HLĐN 29 cho vùng Tây Nguyên Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long
Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Bộ
ThS. Nguyễn Văn Chương
Cây lương thực và cây thực phẩm
23/04/2017
2017-02-757/KQNC
05/07/2017
Cục Thông tin KH và CN Quốc gia
Sản xuất, giống đậu tương, HL 07-15, HLĐN 29
Ứng dụng
Dự án sản xuất thử nghiệm
Một số công ty, Cửa hàng vật tư nông nghiệp đã sử dụng giống đậu tương HLĐN 29 và HL 07-15 phát triển trong sản xuất: - Cty Nutifood, Hoàng Anh Gia Lai: Ứng dụng nhân giống để lập vùng nguyên liệu tại Gia Lai và có hướng phát triển hình thành vùng nguyên liệu tại Campuchia; - Cty TNHH Đông Nam Á: Ứng dụng nhân giống để lập vùng nguyên liệu tại Gia Lai; - Trung tâm Khuyến nông Vĩnh Long: Ứng dụng trong Dự án Chuyển đổi cơ cấu cây trồng của địa phương; - Cty TNHH Công nghiệp Thực phẩm Tất Thắng: Ứng dụng nhân giống để lập vùng nguyên liệu đậu tương không chuyển gen tại Nam Dong, Cư Jút, Đăk Nông - Công ty TNHH Bảo Nam: Ứng dụng nhân giống để lập vùng nguyên liệu đậu tương không chuyển gen tại Đăk Lăk, Đồng Nai và Vĩnh Long - Cửa hàng vật tư nông nghiệp Nguyễn Thị Hồng Loan: là đại lý trung gian phổ biến trực tiếp đến nông dân có nhu cầu sản xuất tại Đồng Nai và BRVT.
Với giá bán từ 14.000 – 15.000 đồng/kg, nông dân thu được lợi nhuận từ 15 – 25 triệu đồng/ha, thâm canh có thể đạt 30 triệu đồng/ha, ccao gấp đôi so với trồng lúa. Dự án đã kết nối được “4 nhà” trong đó Công ty TNHH Công nghiệp Thực phẩm Tất Thắng và Công ty TNHH Bảo Nam đã hợp đồng bao tiêu sản phẩm cho nông dân trồng giống đậu tương HLĐN 29 và HL 07-15.
Trong phạm vi dự án, giống được hỗ trợ 100% để nhân rộng mô hình. Kết quả của dự án đã được hầu hết nông dân, địa phương chấp nhận và khuyến khích mở rộng. Hầu hết nguồn giống thu hoạch được đều do bà con nông dân tự quản lý, tự nguyện tái sản xuất, chính quyền địa phương (Hội Nông dân, Ban Nông nghiệp xã, Trung tâm Khuyến nông) quản lý phân phối tại chỗ và các địa bàn khác khi đạt được sự thỏa thuận. Sản lượng hai giống đậu tương HL 07-15 và HLĐN 29 từ dự án, ước tính hiện nay đã phát triển được hơn 500 ha tại Tây Nguyên, Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là nguồn giống của cây trồng tự thụ phấn, được kết hợp bởi nguồn gen tốt, là sản phẩm không chuyển gen. Trên cơ sở quy trình sản xuất hạt giống các cấp và quy trình kỹ thuật canh tác áp dụng cho 3 vùng sinh thái được chuyển giao, địa phương và người sản xuất có thể tái tạo nguồn giống để sản xuất tạo vùng nguyên liệu đậu tương không chuyển gen, các doanh nghiệp có thể yên tâm sử dụng để tạo các sản phẩm trung gian cho thị trường. Càng về sau, việc nhân rộng và chuyển giao kết quả của dự án bị giới hạn do giá cả sản phẩm bị cạnh tranh bởi nhập khẩu, nhiều công ty vẫn còn đắn đo để quyết định thu mua đậu tương sản xuất trong nước. Do đó, mặt hàng đậu tương ít được ký kết bao tiêu sản phẩm, làm người dân ngại sản xuất, dẫu đã biết nhu cầu tiêu thụ đậu tương trong nước rất cao.