Lòng tự trắc ẩn mới bắt đầu được nghiên cứu từ đầu thế kỉ XXI nhằm tìm một hướng đi cho con người trong việc ứng phó với cảm xúc tiêu cực, giải phóng bản thân, vượt lên trên những đau khổ, yêu thương bản thân, điều chỉnh nhận thức - hành vi - cảm xúc để thích ứng tốt với môi trường tự nhiên - xã hội luôn biến đổi. Để đạt tới sự tự trắc ẩn, chánh niệm là thành tố được sinh viên thực hành nhiều nhất và sinh viên ít thực hành nhân ái với bản thân trong cuộc sống. Có mối tương quan ý nghĩa về mặt thống kê giữa các thành tố của lòng tự trắc ẩn và giữa chúng với lòng tự trắc ẩn nói chung. Có sự khác biệt ý nghĩa thống kê về các cấu thành trong thang đo SCS-26 giữa các nhóm giới tính, ngành học, vùng miền... Với những kết quả thu được, nghiên cứu này có mục tiêu thích ứng thang đo SCS-26 trên mẫu nghiên cứu là người Việt Nam và chuẩn bị cho những nghiên cứu so sánh xuyên văn hóa tiếp theo.