Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  21,066,375
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

Quản lý và khai thác thuỷ sản

Tô Văn Phương, Vũ Kế Nghiệp(1), Nguyễn Trọng Lương

Nghiên cứu đánh giá hoạt động của thiết bị giám sát tàu cá ở khu vực miền Trung

Study on operation of fishing vessel monitoring system in the central region

Tạp chí khoa học - công nghệ thủy sản - Đại học Nha Trang

2021

1

63-70

1859 - 2252

Trình bày một phần kết quả nghiên cứu đánh giá hoạt động các thiết bị giám sát tàu cá (VMS) lắp đặt trên ở khu vực Miền Trung trong 2 chuyến biển. Kết quả nghiên cứu cho thấy: i) các thiết bị VMS VMS Thuraya SF2500, Vifish.18 và BA-SAT01 được lắp đặt tương ứng trên các tàu cá ở Bình Định, Khánh Hòa và Quảng Nam có tính năng đáp ứng yêu cầu của quy định của Nhà nước; ii) mức độ truyền nhận tín hiệu vị trí tàu thể hiện Thuraya SF2500 đạt cao nhất là 141%, Vifish.18 đạt cao nhất là 152% trong khi BA-SAT01 vượt tới hơn 8 lần so với quy định tối thiểu; iii) Khoảng T lâu nhất của Thuraya SF2500 lên đến 13h38’ và Vifish.18 là 8h38’, trong khi đó BA-SAT01 không có khoảng T. Ngoài ra, các VMS đáp ứng tốt về lưu vết tàu cá, ngôn ngữ trên phần mềm là tiếng Việt giúp ngư dân sử dụng dễ dàng, mức độ tiêu hao điện năng thấp; giá thành sản phẩm khoảng 20 triệu. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, quy trình quản lý và phân quyền trong sử dụng dữ liệu trên VMS là rất quan trọng.

In this paper, a part of the study results on evaluating the use of fi shing vessel monitoring (VMS) installed on the vessels in 2 sea trips were presented. The study results showed that: i) The VMS Thuraya SF2500, Vifi sh.18 and BA-SAT01 installed respectively on vessels of Binh Dinh, Khanh Hoa and Quang Nam province whose features meet regulatory requirements; ii) signal transmission level showed that Thuraya SF2500 reached the highest of 141%, Vifi sh.18 reached the highest of 152% while BA-SAT01 exceeded 8 times higher than the minimum requirements; iii) the longest T period of Thuraya SF2500 was 13h38’ and the Vifi sh.18 was 8h00’, while BA-SAT01 did not have the T period. In addition, the VMS had good response to tracking the vessel on the sea, the software language was in Vietnamese that eff ectively helped fi shermen to use, low power consumption; the VMS cost was about 20 million VNĐ. The study also showed that the process of management and decentralization in using data on VMS was crucial important.

TTKHCNQG, CVv 400