



- Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam
76
Kỹ thuật và thiết bị y học
BB
Kiều Ngọc Dũng, Nguyễn Khắc Thiên Chương, Hoàng Anh Tiến(1), Nguyễn Tri Thức
Khả thi, an toàn và hiệu quả của máy tạo nhịp bó HIs
Feasibility, efficacy, and safety of HIs bundle pacemaker
Tạp chí Y học Việt Nam (Tổng hội Y học Việt Nam)
2024
1B
376-382
1859-1868
Đánh giá đặc điểm lâm sàng, tính khả thi, an toàn và hiệu quả của kỹ thuật tạo nhịp bó His. Đặt vấn đề: Tạo nhịp thất phải làm tăng nguy cơ suy tim nhưng tái lập trình máy, nâng cấp máy lại thách thức cao nếu có suy tim tiến triển hoặc mới mắc. Tạo nhịp bó His là một phương pháp thay thế và được báo cáo với tỉ lệ thành công thủ thuật cao ở những trung tâm giàu kinh nghiệm. Phương pháp: Tất cả các bệnh nhân nhập Bệnh viện Chợ Rẫy (TPHCM, Việt Nam) được xem xét chỉ định đặt máy tạo nhịp bó His vĩnh viễn từ tháng 10/2019 đến 01/2023. Kết quả: Nghiên cứu thu nhận được 16 trường hợp với 13 ca (81.25%) chậm hoặc block dẫn truyền tại hoặc dưới nút. Cấy thành công điện cực tạo nhịp bó His ở 15 ca (93.75%), 1 trường hợp block dẫn truyền dưới bó His được chuyển sang tạo nhịp bó nhánh trái. Một trường hợp (6.67%) mất dẫn cần làm thủ thuật chỉnh dây, 1 trường hợp (6.67%) tăng ngưỡng, không có biến chứng liên quan thủ thuật khác. Tạo nhịp bó His có xu hướng giúp giảm thể tích cuối tâm trương thất trái (EDV (mL), 232.38 ± 59.37 sv 248.86 ± 72.45, P = 0.08) và cải thiện đáng kể phân suất tống máu thất trái (LVEF (%), 40.65 ± 19.38 sv 32.11 ± 12.74, P = 0.005) ở nhóm bệnh nhân có suy tim (N=8). Tạo nhịp bó His có hiệu chỉnh block dẫn truyền bó nhánh thu hẹp QRS đáng kể (QRS (ms), 108.00 ± 9.76 sv 132.40 ± 12.12, P = 0.043) nhờ rút ngắn khử cực cả thất trái (RWPT V6 (ms), 77.40 ± 7.40 sv 92.60 ± 20.21, P = 0.138) và thất phải (RWPT V1 (ms), 57.60 ± 7.40 sv 84.00 ± 36.46, P = 0.104) tuy không đạt ý nghĩa thống kê, đồng thời có xu hướng đảo ngược tái cấu trúc thất trái trên các thông số siêu âm gồm đường kính cuối tâm trương thất trái (LVEDD (mm), 50.96 ± 7.74 sv 53.64± 10.32, P = 0.08), thể tích cuối tâm trương thất trái (EDV (mL), 176.96 ± 53.15 sv 198.75 ± 72.56, P = 0.08) và phân suất tống máu thất trái (LVEF (%), 54.86 ± 12.34 sv 47.40 ± 18.48, P = 0.068). Ở nhóm QRS hẹp, tạo nhịp bó His duy trì tính khử cực nhanh thất trái (RWPT V6 (ms), 71.80 ± 14.65 sv 71.00 ± 13.10, P = 0.496) và thất phải (RWPT V1 (ms), 59.20 ± 17.53 sv 62.80 ± 17.53, P = 0.225) mà vẫn duy trì đồng bộ điện học 2 thất (RWPT V6-V1 (ms), 12.60 ± 6.62 sv 8.20 ± 2.17, P = 0.138). Tạo nhịp bó His không làm thay đổi quá trình tái cực về thời gian (QT (ms), 438.50 ± 41.98 sv 432.94 ± 49.47, P = 0.176) và tính phân tán tái cực (Tpe (ms), 91.00 ± 10.57 sv 88.38 ± 10.63, P = 0.104). Kết luận: Kỹ thuật tạo nhịp bó His thì khả thi với tỉ lệ thành công cao, an toàn với tỉ lệ tai biến chấp nhận và hiệu quả đảo ngược tái cấu trúc thất trái ở bệnh nhân suy tim. Ngoài ra tạo nhịp bó His duy trì tính đồng bộ điện học 2 thất và không gây biến đổi quá trình tái cực thất. Kỹ thuật này còn một số hạn chế như tình trạng tăng ngưỡng tạo nhịp bó His cũng như phải can thiệp đặt lại dây do vi di lệch hoặc mất dẫn.
The study sought to measure the clinical and procedural characteristics and investigate the safety and efficacy of the His bundle pacing technique. Background: Right ventricular pacing is associated with an elevated risk of heart failure, but device reprogramming and upgrades have significant challenges. HBP has emerged as an alternative and is reported to be highly successful in the hands of highly experienced centers. Method: All patients referred for permanent pacemaker implantation at the Cho Ray Hospital (Hochiminh City, Vietnam) between October 2019 and January 2023 were evaluated. Result: The present study was carried out in 16 patients referring to implantation of pacemaker-associated bradycardia. 13 cases out of all (81.25%) had atrioventricular nodal or infranodal delay or block. His bundle lead insertion was successful in 15 patients (93.75%), but one failed case was because of the infrahisian block mandatory changing to left bundle pacing. The complication included one patient experiencing lead revision in the second procedure due to loss of capture, one remaining patient with a threshold increase but no need to intervene, and no record of any others. In the heart failure patients (N=8), His bundle pacing insignificantly reduced left ventricular end-diastolic volume (EDV (mL), 232.38 ± 59.37 vs. 248.86 ± 72.45, P = 0.08), but improved left ventricular ejection fraction statistically (LVEF (%), 40.65 ± 19.38 vs. 32.11 ± 12.74, P = 0.005). The correction type pacing narrowed the QRS duration evidently (QRS (ms), 108.00 ± 9.76 vs. 132.40 ± 12.12, P = 0.043) based on the shortening propensity of the left (RWPT V6 (ms), 77.40 ± 7.40 vs. 92.60 ± 20.21, P = 0.138), and right ventricular activation (RWPT V1 (ms), 57.60 ± 7.40 vs. 84.00 ± 36.46, P = 0.104), simultaneously, left ventricular remodeling reversal examined by LVEDD (mm) (50.96 ± 7.74 vs. 53.64± 10.32, P = 0.08), EDV (mL) (176.96 ± 53.15 vs. 198.75 ± 72.56, P = 0.08), and LVEF (%) (54.86 ± 12.34 vs. 47.40 ± 18.48, P = 0.068), but not achieved statistical significance. In the narrow QRS group, His bundle pacing maintained a rapid left depolarization (RWPT V6 (ms), 71.80 ± 14.65 vs. 71.00 ± 13.10, P > 0.05), not activated right ventricle early (RWPT V1 (ms), 59.20 ± 17.53 vs. 62.80 ± 17.53, P = 0.225), however, still preserved biventricular electrical synchrony (RWPT V6-V1 (ms), 12.60 ± 6.62 vs. 8.20 ± 2.17, P = 0.138). Significant alteration of the repolarization process was not attested in the aspects of duration (QT (ms), 438.50 ± 41.98 vs. 432.94 ± 49.47, P = 0.176) and repolarization dispersion (Tpe (ms), 91.00 ± 10.57 vs. 88.38 ± 10.63, P = 0.104). Conclusion: His bundle pacing could be feasible with a high success rate and achieve procedural safety without unacceptable complications. This technique obtained the left ventricular remodeling reversal in heart failure patients. In addition, it might maintain electrical synchrony in both ventricles and insignificant alteration of the repolarization process. Nevertheless, several essential limitations will still hinder the procedure being implemented widerly, such as increasing threshold or micro-dislogment requiring a mandatory lead revision, especially in the initial experiment center.
TTKHCNQG, CVv 46