Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  26,724,536
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

76

Hệ tim mạch

BB

Trần Tuấn Việt(2), Bùi Văn Nhơn, Đỗ Thu Quyên(1), Dương Thị Kim Luyến, Phan Đình Phong

Tình trạng suy dinh dưỡng và yếu tố liên quan trên bệnh nhân suy tim mạn tính tại viện Tim mạch Quốc gia Việt Nam

Malnutrition and related factors in patients with chronic heart failure at Vietnam National Heart Institute

Tạp chí Y học Việt Nam (Tổng hội Y học Việt Nam)

2024

3

125-130

1859-1868

Nghiên cứu được thực hiện nhằm mục đích đánh giá tình trạng và các yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng trên nhóm bệnh nhân suy tim mạn tính được điều trị tại Viện tim mạch quốc gia Việt Nam, từ đó tối ưu hoá chiến lược điều trị. Kết quả: Trong 108 bệnh nhân (Nam: 60.2%, Nữ: 39.8%) có độ tuổi trung bình là 62.06 ± 14.73, bệnh nhân đến từ thành thị với trình độ học vấn ở mức trung học cơ sở trở xuống chiếm 72.2%. Phần lớn đối tượng mắc bệnh từ 1 đến 3 năm chiếm 63.0%; trong đó, đối tượng có phân độ khó thở độ II theo NYHA chiếm tỷ lệ cao nhất (78.7%), phân độ tống máu bảo tồn (HFpEF ≥ 50%) chiếm đa số (75.9%). Tỷ lệ bệnh nhân không sử dụng thuốc điều trị suy tim chiếm tới 64.8%. Tăng huyết áp là bệnh lý đồng mắc chiếm tỷ lệ cao nhất (34.3%). Số bệnh nhân được chẩn đoán tình trạng suy dinh dưỡng được xác định bằng thang điểm Mini Nutritional Assessment (MNA) là 78,7%. Hơn một nửa số bệnh nhân không hoạt động thể chất (51.9%). Kết luận: Độ tuổi, giới tính, thời gian phát hiện bệnh, hoạt động thể chất và chỉ số phân suất tống máu liên quan đến khả năng xuất hiện tình trạng suy dinh dưỡng trên bệnh nhân suy tim mạn tính (p <0.05). Trong chiến lược điều trị cần có biện pháp can thiệp nhằm dự phòng tình trạng suy dinh dưỡng giúp giảm tiên lượng, giảm tỷ lệ tử vong và cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân suy tim mạn tính.

The study was conducted to evaluate the condition and factors related to malnutrition in a group of chronic heart failure patients treated at the Vietnam National Heart Institute, therefore the treatment strategy can be optimized. Results: Among 108 patients (Male: 60.2%, Female: 39.8%) the average age was 62.06 ± 14.73 years. Patients from urban areas with an education level of secondary school or less account for 72.2%. The majority of subjects had the disease for 1 to 3 years, accounting for 63.0%; Among them, subjects with difficulty breathing level II according to NYHA accounted for the highest proportion with 78.7%, with preserved ejection fraction (HFpEF ≥ 50%) accounting for the majority (75.9%). The proportion of subjects not using drugs to treat heart failure is up to 64.8%. Hypertension is the comorbidity with the highest rate (34.3%). Malnutrition was determined by the Mini Nutritional Assessment (MNA) score of 78.7%. Additionally, 51.8% of patients were physically inactive (51.9%). Conclusion: Age, gender, time of disease detection, physical activity and ejection fraction index are related to the possibility of malnutrition in chronic heart failure patients (p < 0.05). In the treatment strategy, it is necessary to have interventions to prevent malnutrition to help reduce prognosis, reduce mortality and improve quality of life of patients with chronic heart failure.

TTKHCNQG, CVv 46