Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  26,791,440
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

76

Ung thư học và phát sinh ung thư

BB

Đào Thị Luận, Nguyễn Văn Chủ(1)

Nghiên cứu đặc điểm của nảy chồi u trong ung thư biểu mô tuyến đại trực tràng

Studying the tumor budding in colorectal adenocarcinoma

Tạp chí Y học Việt Nam (Tổng hội Y học Việt Nam)

2025

3

170-174

1859-1868

Ung thư đại trực tràng là bệnh lý ác tính thường gặp nhất của đường tiêu hóa với tỷ lệ tử vong cao. Nảy chồi u là một yếu tố tiên lượng quan trọng liên quan đến di căn hạch, di căn xa, tái phát tại chỗ, thời gian sống thêm toàn bộ và không bệnh xấu hơn. Mục tiêu nghiên cứu: xác định tình trạng nảy chồi u và mối liên quan giữa nảy chồi u với một số đặc điểm mô bệnh học. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang hồi cứu được tiến hành trên các tiêu bản nhuộm hematoxylin và eosin (H&E) của 103 người bệnh ung thư biểu mô tuyến đại trực tràng nguyên phát đã cắt bỏ khối u và nạo vét hạch vùng mà không hóa xạ trị trước phẫu thuật từ tháng 1 năm 2017 đến tháng 11 năm 2018 tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Phân tích dữ liệu được thực hiện trên phần mềm SPSS 20.0. Mức ý nghĩa thống kê p < 0.05 được sử dụng. Nghiên cứu tuân thủ theo tuyên bố Helsinki về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học và được phê duyệt bởi Hội đồng đạo đức y sinh của Trường Đại học Y Hà Nội (IRB-VN922). Kết quả: Tuổi trung bình của bệnh nhân tại thời điểm phát hiện bệnh là 62,96±12,651 tuổi, trong đó nhóm tuổi 60-69 chiếm tỷ lệ nhiều nhất (36,9%). Nam giới chiếm tỷ lệ cao hơn nữ giới (lần lượt là 55,3% và 44,7%). Vị trí giải phẫu phổ biến nhất là trực tràng (32,0%). Hầu hết các trường hợp là ung thư biểu mô tuyến típ không đặc biệt (82,5%), biệt hóa vừa (86,4%) và giai đoạn pT3 (53,4%). Tỷ lệ di căn hạch bạch huyết chung là 41,7%; di căn đến 1–3 hạch bạch huyết là thường gặp nhất (32,0%). Khối u giai đoạn I, II và III chiếm lần lượt 5,8%, 52,4% và 41,7% các trường hợp. Tỷ lệ xâm nhập mạch bạch huyết và quanh dây thần kinh lần lượt là 38,8% và 36,9%. Tỷ lệ nảy chồi u theo 3 mức độ là độ thấp Bd1 (52,4%), độ trung bình Bd2 (28,2%) và độ cao Bd3 (19,4%). Nảy chồi u độ cao gặp nhiều hơn ở nhóm người bệnh có di căn hạch, giai đoạn xâm lấn sâu hơn, có xâm lấn mạch bạch huyết và quanh thần kinh (p < 0,05). Kết luận: Nảy chồi u độ cao là yếu tố tiên lượng xấu trong ung thư biểu mô tuyến đại trực tràng.  

 

Colorectal cancer is the most common malignant disease of the gastrointestinal tract with a high mortality rate. Tumor budding is an important prognostic factor associated with lymph node metastasis, distant metastasis, local recurrence, and reduced overall survival and disease-free survival. Objectives:  assess the tumor budding and its relation with several histopathological features. Material and Methods: A retrospective cross-sectional descriptive study was conducted on hematoxylin and eosin (H&E)-stained slides of 103 patients with primary colorectal adenocarcinoma who underwent tumor resection and regional lymph node dissection without preoperative chemoradiotherapy, f-rom January 2017 to November 2018 at Hanoi Medical University Hospital. Data analysis was performed using SPSS version 20.0. A p-value of <0.05 was considered statistically significant. The study complied with the Declaration of Helsinki on ethical principles for medical research involving human subjects and was approved by the Biomedical Ethics Committee of Hanoi Medical University (IRB-VN922). Results: The mean age of patients was 62.96 ± 12.651 years, with the most common age group being 60–69 years (36.9%). Males accounted for a higher proportion than females (55.3% vs. 44.7%). The most common anatomical site was the rectum (32.0%). Most cases were of the conventional type of adenocarcinoma (82.5%), moderately differentiated (86.4%), and at pathological stage pT3 (53.4%). The overall lymph node metastasis rate was 41.7%, with metastasis to 1–3 lymph nodes being the most common (32.0%). Tumors at stages I, II, and III accounted for 5.8%, 52.4%, and 41.7% of cases, respectively. The rates of lymphovascular and perineural invasion were 38.8% and 36.9%, respectively. Tumor budding was classified into three levels: low (Bd1, 52.4%), intermediate (Bd2, 28.2%), and high (Bd3, 19.4%). High-grade tumor budding was more frequently observed in patients with lymph node metastasis, deeper invasion stage, lymphovascular invasion, and perineural invasion (p < 0.05). Conclusion: High-grade tumor budding is a poor prognostic factor in colorectal carcinoma.

 

TTKHCNQG, CVv 46