Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  30,040,373
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

16.99

Ngôn ngữ học và văn học

Vũ Đức Nghiệu, Trương Thành Công(1)

Những dị biệt ở trung tâm danh ngữ tiếng Việt cổ - cận đại so với hiện nay

Differences in Heads between the Old Vietnamese and Contemporary Vietnamese Noun Phrases

Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội)

2017

3

276-291

2354-172

1) Cái gọi là loại từ trong tiếng Việt chính là các danh từ đơn vị. Chúng hoàn toàn có khả năng làm trong tâm danh ngữ. 2) Trong một số danh ngữ tiến Việt cổ-cận đại, có hiện tượng danh từ khối không đếm được đã trực tiếp kết hợp với lượng từ ở phía trước, mà không có danh từ đơn vị ở vị trí trung tâm chính danh của danh ngữ. 3) Bên cạnh đó, cũng có hiện tượng danh từ khối không đếm được lại kết hợp với định ngữ trực chỉ để chỉ cá thể. 4) Trong các danh ngữ thời kỳ đó, khá phổ biến hiện tượng danh từ đơn vị cái kết hợp với danh từ chỉ động vật và danh từ đơn vị con kết hợp với danh từ chỉ bất động vật. Ngày nay, những danh ngữ tren đây được coi là không chuẩn mực. Chúng thể hiện những diễn biến lịch sử trong quá trình lập thức danh ngữ tiếng Việt.

This paper deals with the heads of Vietnamese noun phrases and some of their changes from the old time up until now. Analyzed data in linguistic documents led to the conclusions as follows: 1. What are called classifiers in Vietnamese (eg. cai, con, chiec, etc.) really are unit nouns (countable nouns). Grammatically, they are entirely able to function as the head of noun phrases. 2. In some old Vietnamese phrases lay a phenomenon that uncountable mass nouns were directly combined with quantifiers on their left, without unit noun (countable noun) as the head of the noun phrases (eg. muon dao [ten thousand-knife: many knives], mot tho [ one-poem: a poem]; etc.). 3. Also, there is another phenomenon that uncountable mass nouns were combined with indexical determiners on their right to indicate a person or a thing (eg. rim dy [snake-that: that snake], khoi dy [smog- that: that smog], etc.). 4. In those noun phrases at that time, it was rather popular to combine the unit noun cdi with an animate noun (eg. cai doi [unit noun-bat: a bat) and the unit noun con could be combined with an inanimate noun (eg. con sach [unite noun-book: a book). , At present day, noun phrases mentioned above are not considered grammatically correct. They reflect historical changes in the formation of Vietnamese noun phrases.

TTKHCNQG, CVv468

  • [1] Яхонтов С.Е. (1971), Языки Китая и Юго-Восточной Азии-проблемы синтаксиса,Наука
  • [2] Нгуен Тай Кан (1976), О конструкции типа "существительное со значением единицы измерения+существительное",Вьетнамский лингвистический сборник
  • [3] Быстров И.С., Нгуен Тай Кан, Станкевич Н.В (1975), Грамматика Вьетнамского языка,Ленинград
  • [4] Weinreich, U. (1966), On the Semantic Structure of Language,J.H. Greenberg (ed.)
  • [5] Vũ Đức Nghiệu (2014), Cấu trúc danh ngữ tiếng Việt trong văn bản "Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh",Tạp chí Ngôn ngữ
  • [6] Vũ Đức Nghiệu (2006), Góp thêm ý kiến về ngữ pháp, ngữ nghĩa của hai kiểu danh ngữ: Hạt dưa...một hạt dưa...,Những vấn đề ngôn ngữ học
  • [7] Vũ Đức Nghiệu (2001), Ngữ pháp, ngữ nghĩa của trạng ngữ chỉ mục đích: Hạt đứa... mục hạt đứa,Tạp chí Ngôn ngữ
  • [8] Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê (1963), Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam,
  • [9] Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm (1949), Việt Nam văn phạm,
  • [10] Pelletier F.J. (1979), Mass terms: Some philosophical Problems,Dordrecht: Reidel
  • [11] Nguyễn Tài Cẩn (1998), Thử phân kỳ lịch sử 12 thế kỷ của tiếng Việt,Tạp chí Ngôn ngữ
  • [12] Nguyễn Tài Cẩn (1975), Ngữ pháp tiếng Việt (Tiếng - từ ghép - đoản ngữ),
  • [13] Nguyễn Tài Cẩn (1975), Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại,
  • [14] Nguyễn Kim Thản (1969), An Outline of Vietnamese Grammar,Vietnamese Studies No. 40
  • [15] Nguyễn Kim Thản (1963; 1997), Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, tập 1-2,Nhà xuất bản Giáo dục
  • [16] Lê Văn Quán (1981), Nghiên cứu về chữ Nôm,
  • [17] Lê Văn Lý (1968), Sơ thảo ngữ pháp Việt Nam,
  • [18] Lê Cận, Phan Thiều (1983), Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt,
  • [19] Hồ Lê (1992), Cú pháp tiếng Việt,
  • [20] Hoàng Dũng, Nguyễn Thị Li Kha (2004), Về các thành tố phụ sau trung tâm trong danh ngữ tiếng Việt,Tạp chí Ngôn ngữ
  • [21] M.B. Emeneau (1951), Studies in Vietnamese (Annamese) Grammar,University of California
  • [22] Đinh Văn Đức (2010), Các bài giảng về từ pháp học tiếng Việt,
  • [23] Đinh Văn Đức (1986), Ngữ pháp tiếng Việt (Từ loại),Nhà xuất bản Đại học và THCN
  • [24] Diệp Quang Ban (2005), Ngữ pháp tiếng Việt,Nhà xuất bản Giáo Dục
  • [25] Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (1991), Ngữ pháp tiếng Việt, tập I,Nhà xuất bản Giáo Dục
  • [26] Chomsky, N. (1965), Aspects of the Theory of Syntax,M.I.T. Press
  • [27] Cao Xuân Hạo (1999), Nghĩa của loại từ,Tạp chí Ngôn ngữ
  • [28] Cao Xuân Hạo (1998), Ngữ đoạn và cấu trúc của ngữ đoạn,Tiếng Việt-mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa
  • [29] Cao Xuân Hạo (1992), Về cấu trúc của danh ngữ trong tiếng Việt,Tiếng Việt-mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa
  • [30] Cao Xuân Hạo (1988), Sự phân biệt đơn vị / khối trong tiếng Việt và khái niệm 'loại từ',Tiếng Việt-mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa
  • [31] Cao Xuân Hạo (1986), Một số biểu hiện của cách nhìn Âu châu đối với cấu trúc tiếng Việt,Tiếng Việt-mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa
  • [32] Cao Xuân Hạo (1980), Hệ loại danh từ của tiếng Việt,Tiếng Việt-mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa
  • [33] Cadière, L. (1958), Syntaxe de la langue Vietnamienne,EFEO
  • [34] Allan, K. (1980), Nouns and Countability,Lang