



- Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam
76
Tâm thần học
BB
Nguyễn Việt Quang, Ngô Toàn Anh(1), Nguyễn Đình Long, Phạm Thị Ngọc Ánh, Trần Thị Thu Hằng, Nguyễn Thế Bảo Khánh
Lo âu, trầm cảm, stress và các yếu tố liên quan ở các cặp vợ chồng điều trị vô sinh tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương
Anxiety, depression, stress and related factors among infertile patients at National Hospital of Obstetrics and Gynecology
Y học Cộng đồng
2025
6
281-286
2354-0613
Phân tích mối liên quan giữa lo âu, trầm cảm, stress với các yếu tố cá nhân cũng như hoàn cảnh gia đình ở bệnh nhân nữ tham gia điều trị vô sinh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 159 bệnh nhân nữ điều trị vô sinh tại Trung tâm Hỗ trợ sinh sản Quốc gia, Bệnh viện Phụ sản Trung ương trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 11 năm 2024. Để đánh giá tỷ lệ và mức độ lo âu, trầm cảm, stress chúng tôi sử dụng bộ câu hỏi DASS-21. Kết quả: Tỷ lệ người vợ có dấu hiệu lo âu, trầm cảm, stress lần lượt là 24,5%, 13,8% và 8,8%. người vợ thuộc dân tộc khác (không phải dân tộc Kinh) có nguy cơ mắc dấu hiệu trầm cảm cao hơn 3,2 lần so với những người vợ là người Kinh với 95%CI: 1,0-9,5. Những người vợ không có hoạt động thể chất thì có nguy cơ mắc lo âu cao hơn 2,3 lần so với những người không mắc với 95%CI: 1,1-5,0. Thời gian vô sinh trung bình ở nhóm có lo âu là 50,6 tháng (42,6-58,6) và ở nhóm không lo âu là 29,9 tháng (21,3-38,5) (p<0,05). Ở nhóm trầm cảm là 48,8 tháng (41,3- 56,2) và nhóm không trầm cảm là 28,7 tháng (18,1-39,4) tháng (p<0,05). Kết luận: Lo âu, trầm cảm, stress vẫn chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong những đối tượng vô sinh. Các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến tỷ lệ lo âu, trầm cảm, stress là những người phụ nữ không phải là dân tộc Kinh, không có hoạt động thể chất. Thời gian phát hiện ra mình vô sinh cũng làm tăng nguy cơ mắc phải lo âu và trầm cảm.
To analyze the relationship between anxiety, depression, stress and related factors as well as family circumstances in female patients undergoing infertility treatment. Subjects and methodology: This is a cross-sectional descriptive study on 159 female patients undergoing infertility treatment at the Center for Assisted Reproductive Tecnology, National hospital of Obstetrics and Gynecology f-rom May to November 2024. To assess the rate and level of anxiety, depression, and stress, DASS-21 questionnaire was employed. Results: The rate of patients showing symptoms of anxiety, depression, and stress was 24.5%, 13.8%, and 8.8%, respectively. Patients of other ethnicities (non-Kinh) were 3.2 times more likely to have depression than Kinh with 95%CI: 1.0-9.5. Subjects who not having physical exercises had a 2.3 times higher risk of anxiety than others with 95%CI: 1.1-5.0. The mean duration of infertility in the anxiety group was 50.6 months (42.6-58.6) and in the non-anxiety group was 29.9 months (95%CI: 21.3-38.5) (p<0.05). In the depression group it was 48.8 months (95%CI: 41.3-56.2) and in the non-depression group it was 28.7 months (95%CI: 18.1-39.4) months (p<0.05). Conclusion: Anxiety, depression, and stress still account for a significant proportion of infertile subjects. Risk factors affecting the rate of anxiety, depression, and stress are women who are not Kinh ethnic group and do not have physical activity. The time of infertility also increases the risk of anxiety and depression.
TTKHCNQG, CVv 417