Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  25,697,676
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

Da liễu, Hoa liễu

Phạm Thị Thu Hương, Tô Thị Thúy Hằng, Võ Hồng Khôi(1)

Nghiên cứu đặc điểm đau trong bệnh zona theo các thang điểm đau xuất xứ thần kinh

Study on c-haracteristic features of neuropathic pain in zona

Tạp chí Y học Việt Nam (Tổng hội Y học Việt Nam)

2021

2

205-208

1859-1868

Bệnh zona là một trong những bệnh da thường gặp, do virus Herpes Zoster gây nên. Đau trong zona là triệu chứng chức năng chính đưa bệnh nhân đến cơ sở y tế, đặc biệt là chuyên khoa Thần Kinh. Đau là biểu hiện đặc thù ở cả ba giai đoạn của bệnh với tính chất đau thần kinh nổi bật. Rất khó lượng giá cảm giác đau nhưng một số thang điểm đau có thể dùng để đánh giá mức độ và tính chất đau xuất xứ thần kinh như thang điểm LANSS và DN4. Mục tiêu: Áp dụng một số thang điểm đau quốc tế đánh giá mức độ và tính chất đau xuất xứ thần kinh trong bệnh zona. Phương pháp: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu theo phương pháp mô tả cắt ngang, tiến cứu trên 73 bệnh nhân được chẩn đoán bệnh zona. Sử dụng thang điểm đau LANSS và DN4 để đánh giá mức độ và tính chất đau. Kết quả: 70% đến 90% bệnh nhân được đánh giá đau theo thang điểm đau xuất xứ thần kinh (LANSS). 60,3% bệnh nhân có tính chất đau xuất xứ thần kinh điển hình (điểm LANSS từ 21 trở lên). 20% đến 80% bệnh nhân có tính chất đau đánh giá theo thang điểm đau xuất xứ thần kinh bộ 4 câu hỏi (DN4). 95,9% bệnh nhân có tính chất đau xuất xứ thần kinh điển hình (điểm DN4 từ 4 trở lên). Tính chất đau xuất xứ thần kinh và mức độ đau sau zona có mối tương quan chặt chẽ với tuổi bệnh nhân. Kết luận: Đau zona có các tính chất điển hình của đau xuất xứ thần kinh. Tuổi càng cao, càng có nguy cơ đau sau zona và các triệu chứng đau đánh giá theo điểm LANSS và bộ 4 câu hỏi (DN4) càng đầy đủ.

Shingles is one of the common skin conditions, caused by the Herpes Zoster virus. Pain in shingles is a major functional symptom that brings patients to medical specialties, especially neurology. Pain is c-haracteristic of all three stages of zona with prominent neuropathic pain. However, pain is difficult to evaluate. There are a number of international pain scales that can be used to assess the level and nature of neuropathic pain, such as the LANSS and DN4 scores. Objective: To apply some international pain scales to assess the level and nature of neuropathic pain in shingles. Methods: We conducted a cross-sectional descriptive study of 73 patients diagnosed with shingles. We used LANSS and DN4 pain scales to assess the level and nature of neuropathic pain. Results: 70% to 90% of the patients suffering f-rom pain were evaluated on the basis of neurological pain score (LANSS) 60.3% of patients had typical neuropathic pain (LANSS score of 21 or higher). 20% to 80% of patients were evaluated according to the Neuropathic pain set of 4 questions (DN4). 95.9% of patients had typical neuropathic pain (DN4 score of 4 or higher). Neuropathic pain and postoperative pain were significantly correlated with the age of patients. Conclusion: Shingles pain had typical properties of neuropathic pain. The higher the risk, the greater the risk of post-shingles and pain symptoms assessed after LANSS and the set DN4 questions.

TTKHCNQG, CVv 46

  • [1] Dworkin R. H, Gnann J. W. et al (2008), Diagnosis and assessment of pain associated with herpes zoster and postherpetic neuralgia.,J Pain, 9(Suppl 1):S37-S44
  • [2] Yawn B. P, Gilden D (2013), The global epidemiology of herpes zoster.,Neurology; 81:928–30
  • [3] Oaklander A. L, Bowsher D., Galer B., Haanpää M., Jensen M. P (2003), Herpes zoster itch: preliminary epidemiologic data.,J Pain, 4:338-343
  • [4] Woolf C. J (2004), Life Sci,75:2605-2610
  • [5] Johnson R. W., Wasner G., Saddier P., Baron R (2008), Herpes zoster and postherpetic neuralgia: optimizing management in the elderly patient.,Drugs Aging, 25:991-1006
  • [6] Nguyễn Văn Chương (2006), Các hội chứng rối loạn cảm giác,Thực hành lâm sàng thần kinh học Tập 2, NXB Y học, 196-204