Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  22,769,550
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

Nhi khoa

Bùi Thị Hương Thùy, Nguyễn Phạm Anh Hoa, Bạch Thị Ly Na, Đỗ Văn Đô, Bùi Thị Kim Oanh, Lê Thị Kim Ngân, Lê Thị Hồng, Phạm Duy Hiền(1)

Nhận xét kết quả điều trị sau 3 tháng sử dụng liệu pháp tế bào gốc tủy xương tự thân hỗ trợ điều trị bệnh teo mật bẩm sinh tại Bệnh viện Nhi Trung ương

Post-3-month evaluation of autologous stem cell transplant in the treatment of biliary atresia in Vietnam national children’s hospital

Tạp chí Y học Việt Nam (Tổng hội Y học Việt Nam)

2022

1

35-39

1859-1868

Nhận xét kết quả sớm của liệu pháp tế bào gốc (TBG) tủy xương tự thân hỗ trợ điều trị bệnh teo mật bẩm sinh (TMBS) tại bệnh viện Nhi Trung ương. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu loạt ca bệnh, gồm 31 bệnh nhân chẩn đoán TMBS được điều trị phẫu thuật Kasai kết hợp với truyền TBG tủy xương tự thân tại Bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 5/2021 đến tháng 4/2022. Kết quả: Trong 31 bệnh nhân nghiên cứu có 1 bệnh nhân không tuân thủ nghiên cứu tại thời điểm 3 tháng sau phẫu thuật. Tỷ lệ nam : nữ xấp xỉ 1:1. Tuổi trung bình khi phẫu thuật là 78,8 ngày tuổi. 100% bệnh nhân có triệu chứng vàng da và phân bạc màu trước điều trị, triệu chứng này giảm có ý nghĩa thống kê sau điều trị 3 tháng với p < 0,001. Giá trị Bilirubin toàn phần, Bilirubin trực tiếp, ALP, GGT trước điều trị có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với thời gian sau điều trị 3 tháng (p < 0,01, p < 0,01, p < 0,01, p < 0,05). Tại thời điểm 3 tháng sau điều trị, có 40% bệnh nhân thoát mật hoàn toàn; 61,29% bệnh nhân có nhiễm trùng đường mật. APRI trước và sau điều trị là 0,82 và 1,16 (p>0,05), điểm PELD trung bình trước và sau điều trị là 9,26 và 3,83 (p<0,05). Kết luận: Có sự cải thiện đáng kể về triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng và điểm PELD sau liệu pháp TBG tủy xương tự thân hỗ trợ điều trị bệnh TMBS. Chúng tôi sẽ tiếp tục tiến hành nghiên cứu trên cỡ mẫu lớn hơn và theo dõi trong thời gian dài hơn, để đánh giá được hiệu quả của liệu pháp này.

To evaluate the early outcome of the autologous stem cell transplant (ASCT) in the treatment of billary atresia (BA) in Vietnam National Children’s Hospital. Subjects and methods: this is a prospective case-series, enrolled 31 patients diagnosed with BA, they were treated with Kasai surgery in combination with ASCT in Vietnam National Children’s Hospital from May 2021 to April 2022. Results: 31 patients were enrolled in the study, amongst those there was only 1 patient who did not fully follow the research. The ratio of male: female was 1:1. The mean age at the time of surgery is 78.8 days old. Prior to the treatment, 100% of the patient had jaundice and white or pale stool; both of these two signs were reduced at 3 months post-op, respectively (p < 0.001). There is a statistically significant difference in the level of total billirubin, conjugated billirubin, ALP and GGT between pre-op and 3-month-post-op (p < 0.01, p < 0.01, p < 0.01 and p < 0.05, respectively). At 3-month post-op, 40% of the patients had complete bile flow, 61.29% of the patients suffered from cholangitis. The median of APRI score of the pre and post-op was 0.82 and 1.16, respectively (p > 0.05); the mean PELD score of the pre-surgery and post-surgery was 9,26 and 3.83, respectively (p < 0.05). Conclusion: there is a significant improvement in the clinical manifestation, laboratory findings and PELD score after the ASCT in the treatment of BA. In the future, we would like to conduct a similar research with a bigger population and longer follow-up duration in order to fully evaluate the outcome of this therapy.

TTKHCNQG, CVv 46

  • [1] Sharma S, Kumar L, Mohanty S, Kumar R, Datta Gupta S, Gupta DK. (2011), Bone marrow mononuclear stem cell infusion improves biochemical parameters and scintigraphy in infants with biliary atresia,Pediatr Surg Int. 27(1) pp.81–9
  • [2] Liu CS, Chin TW, Wei CF. (1998), Value of gamma-glutamyl transpeptidase for early diagnosis of biliary atresia,Zhonghua Yi Xue Za Zhi (Taipei). 61(12) pp.716–20
  • [3] Ihn K, Ho IG, Chang EY, Han SJ (2018), Correlation between gamma-glutamyl transpeptidase activity and outcomes after Kasai portoenterostomy for biliary atresia,J Pediatr Surg. 53(3) pp.461–7
  • [4] Hanalioğlu D, et al. (2019), Revisiting longterm prognostic factors of biliary atresia: A 20-year experience with 81 patients f-rom a single center,Turkish J Gastroenterol. 30(5) pp.467.
  • [5] Gad EH, et al. (2021), Short- and long-term outcomes after Kasai operation for type III biliary atresia: Twenty years of experience in a single tertiary Egyptian center-A retrospective cohort study,Ann Med Surg. 62 pp.302–14
  • [6] Phạm Thị Hải Yến (2019), Nghiên cứu kết quả và một số yếu tố liên quan đến kết quả dẫn lưu mật sau phẫu thuật Kasai trên bệnh nhân teo mật bẩm sinh,Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y Hà Nội
  • [7] Hoàng Thị Xuyến (2013), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, phân loại và tỷ lệ nhiễm Cytomegalovirus ở bệnh nhân teo đường mật bẩm sinh,Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y Hà Nội
  • [8] Nguyễn Huy Toàn, Phạm Duy Hiền (2021), Cắt xơ rốn gan rộng rãi trong phẫu thuật Kasai điều trị teo đường mật bẩm sinh,Tạp chí Y học Việt Nam. 508(2)
  • [9] Bạch Thị Ly Na (2016), Nhận xét một số biến chứng thường gặp và kết quả điều trị bệnh nhân teo mật bẩm sinh sau phẫu thuật Kasai tại bệnh viện Nhi Trung Ương,Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y Hà Nội