Xác định nồng độ kháng thể kháng virus SARS-COV-2 sau khi tiêm vaccin theo các mô hình, từ đó đưa ra khuyến cáo tần suất tiêm phòng đối với virus SARS-CoV-2. Đối tượng: gồm 472 người có độ tuổi từ 12 trở lên đã tiêm phòng 3 liều vaccin chống CoVid. Phương pháp nghiên cứu: Các đối tượng được tiêm các loại vaccine là AZD1222 (AstraZeneca), BNT162b2 (Pfizer) và mRNA-1273 (Moderna). Hai liều đầu được tiêm bằng vaccin AZD1222 và các liều sau được tiêm 1 trong 3 loại vaccin AZD1222, BNT162b2 hoặc mRNA-1273. Lấy máu tĩnh mạch định lượng nồng độ kháng thể kháng virus SARS-CoV-2 theo phương pháp miễn dịch điện hóa phát quang trên máy Cobas 8000 sử dụng kit tương ứng của hãng Roche. Kết quả: Nồng độ kháng thể ở nữ giới cao hơn nam giới (p = 0,048). Có sự khác biệt về nồng độ kháng thể khi tiêm các loại vaccin khác nhau với p < 0,001, cao nhất ở nhóm tiêm 2 liều AZD1222 + mRNA-1273, thấp nhất ở nhóm không tiêm liều bổ sung. Có sự khác biệt về nồng độ kháng thể SARS-COV-2 S ở nhóm có nhiễm và không nhiễm virus, nồng độ kháng thể ở nhóm có nhiễm CoVid 19 vẫn còn duy trì ở mức cao sau 300 ngày còn nồng độ ở nhóm không nhiễm Covid 19 giảm rõ rệt ngay sau 150 ngày. Kết luận: Sau tiêm vaccin, nồng độ kháng thể ở nữ cao hơn ở nam, các loại vaccin khác nhau tạo đáp ứng miễn dịch khác nhau trong đó cao nhất ở nhóm tiêm 2 liều AZD1222 + mRNA-1273. và thấp nhất ở nhóm tiêm 3 liều AZD1222. Các mô hình tiêm chủng đều có nồng độ kháng thể kháng SARSCOV 2 S giảm dần theo thời gian sau 100-150 ngày.