Tính đề kháng kháng sinh của Streptococcus pneumoniae (phế cầu) là một trong những vấn đề sức khỏe đang rất được quan tâm. Việc lạm dụng kháng sinh cũng như sử dụng kháng sinh không phù hợp dẫn đến gia tăng tính đề kháng thuốc. Cần mô tả tính đề kháng kháng sinh của phế cầu gây bệnh ở trẻ em để chọn lựa kháng sinh ban đầu phù hợp. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả 129 trẻ có kết quả cấy bệnh phẩm (đàm, máu, dịch não tủy, dịch màng phổi) dương tính với phế cầu và được chẩn đoán là viêm phổi, viêm mủ màng phổi, viêm màng não, nhiễm khuẩn huyết tại bệnh viện Nhi Đồng 2 từ tháng 1 năm 2018 đến tháng 9 năm 2021. Kết quả: 128/129 chủng phế cầu được phân lập có kết quả kháng sinh đồ. Tất cả các chủng đều nhạy với vancomycin và linezolid (127/127). Tỉ lệ kháng erythromycin là 100% (96/96), penicillin V 95,8% (91/95), clindamycin 94,8% (91/96), tetracycline 94,6% (105/111), cotrimoxazole 89,7% (104/116), chloramphenicol 26,7% (32/120), cefepime 26,1% (31/119), penicillin G và meropenem là 21,4% (27/126), cefotaxim 18,3% (23/126), amoxicillin 14,3% (16/112), levofloxacin 3,4% (4/117) và moxifloxacin 1,7% (2/115). Có 94,5% (121/128) chủng phế cầu là tác nhân đa kháng thuốc. Tỉ lệ kháng chloramphenicol và penicillin G cao hơn ở các chủng gây bệnh phế cầu xâm lấn so với các chủng phế cầu gây viêm phổi đơn thuần, lần lượt là 41,9% so với 18,2% và 34% so với 13,9%, p < 0.05. Các yếu tố như bệnh nền, tiền căn viêm phổi, sử dụng kháng sinh trước nhập viện không gây ra sự khác biệt về tỉ lệ đề kháng kháng sinh của phế cầu. Kết luận: Tỉ lệ phế cầu đa kháng thuốc rất cao. Cần cập nhật định kỳ về tính đề kháng kháng sinh của phế cầu gây bệnh ở trẻ em để lựa chọn kháng sinh ban đầu phù hợp.