Mục tiêu: Đánh giá thời gian sống thêm bệnh nhân điều trị nút mạch hóa chất bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan tại bệnh viện Bạch Mai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu phân tích hồi cứu trên các bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan điều trị nút mạch hóa chất từ thàng 7/2017 đến tháng 7/2020 tại Trung tâm Điện quang - Bệnh viện Bạch Mai. Kết quả: Hồi cứu trên 70 bệnh nhân gồm 64 nam (92,9%) và 6 nữ (7,1%) đã được chẩn đoán xác định ung thư biểu mô tế bào gan với độ tuổi trung bình 61,5 ± 11,34 tuổi (từ 32 tuổi đến 83 tuổi). Số lần điều trị trung bình là 4,5 ± 0,4 lần (1-16 lần). Thời gian sống thêm không tiến triển ước tính sau TACE lần đầu và thời gian sống thêm toàn bộ ước tính lần lượt là 29,7 ± 3,3 tháng, 43,3 ± 2,5 tháng. Thời gian sống thêm tích lũy tại thời điểm 1 năm, 2 năm, 3 năm và 5 năm tương ứng là 91,4%, 77,1%, 63,7% và 29,4%. Các bệnh nhân được điều trị cTACE chiếm 67,1% và Deb-TACE chiếm 32,9%. Tỷ lệ kết quả đáp ứng khối u theo mRECIST sau TACE lần đầu với các mức độ đáp ứng hoàn toàn, đáp ứng một phần, bệnh ổn định và bệnh tiến triển lần lượt là 30,0%, 55,7%, 4,3%, 10,0%. Thời gian sống thêm trung bình ước tính ở nhóm đáp ứng và không đáp ứng theo mRECIST sau TACE lần đầu lần lượt là 47,8 ± 2,3 tháng và 12,2 ± 2,7 tháng (p = 0,001). Đáp ứng điều trị mRECIST dự báo sống thêm của bệnh nhân trên phân tích đơn biến (HR = 15,13, p = 0,000). Đáp ứng điều trị mRECIST là yếu tố tiên lượng sống thêm độc lập (p = 0,001) Kết luận: TACE là phương pháp điều trị có hiệu quả tốt, kéo dài thời gian sống thêm của bệnh, đặc biệt ở nhóm bệnh nhân có đáp ứng điều trị. Vì vậy, đáp ứng điều trị theo mRECIST sau TACE là mục tiêu cần đạt được để kéo dài thời gian sống thêm.