Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  29,917,561
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

76

Nhi khoa

BB

Nguyễn Thị Thanh Bình, Phạm Thị Ny, Trương Thị Diệp Anh, Trương Quang Vinh, Lê Phan Minh Triết, Trần Bình Thắng(1)

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và tương quan giữa các chỉ số huyết học máu cuống rốn và máu ngoại vi trong nhiễm khuẩn sơ sinh sớm

Clinical characteristics and hematological parameters correlations between umbilical cord blood and peripheral blood in early-onset neonatal infection

Tạp chí Y học Việt Nam (Tổng hội Y học Việt Nam)

2024

2

351-356

1859-1868

Mô tả đặc điểm lâm sàng và tìm hiểu mối tương quan của một số chỉ số huyết học giữa máu cuống rốn với máu ngoại vi trong nhiễm khuẩn sơ sinh sớm (NKSSS). Đối tượng, phương pháp: Nghiên cứu mô tả tiến cứu thực hiện trên 83 trẻ sơ sinh có yếu tố nguy cơ NKSSS được sinh ra tại Khoa Phụ sản, Bệnh viện Trường Đaị học Y-Dược Huế, từ tháng 06/2023 đến tháng 06/2024. Máu cuống rốn được thu thập và xét nghiệm ngay sau sinh. Theo dõi lâm sàng và cận lâm sàng trong 72 giờ, sau đó chia thành 2 nhóm: 1) nhóm NKSSS (n=40) và 2) nhóm không NKSSS (n=43). Kết quả: Triệu chứng lâm sàng NKSSS hay gặp gồm thở nhanh (77,5%), rút lõm lồng ngực (57,6%), nôn (40,0%), bú kém (32,5%), vàng da sớm trong 24h đầu sau sinh (75,6%). Số lượng bạch cầu (BC), số lượng hồng cầu, nồng độ Hemoglobin (Hb), Hematocrit (Hct) và số lượng tiểu cầu (TC) trong máu cuống rốn nhóm trẻ NKSSS lần lượt là 12,65 ± 6,38 G/l; 4,29 ± 0,52 T/l; 152,77± 19,12 g/l; 46,89± 5,77%; 198,98 ± 96,74 G/l. Có mối tương quan thuận mức độ chặt chẽ về các chỉ số số lượng BC, BC trung tính, BC lympho, Hb, MCV, Hct, số lượng TC giữa máu cuống rốn và máu ngoại vi trong nhóm trẻ NKSSS (p < 0,001). Kết luận: Triệu chứng lâm sàng NKSSS đa dạng, có thể sử dụng máu cuống rốn thay thế máu ngoại vi trong thực hành lâm sàng theo dõi NKSSS.

To describe the clinical characteristics and to find the correlation of hematological parameters between umbilical cord blood and peripheral blood in early-onset neonatal infection (EOI). Methods: This was a prospective descriptive study. There were 83 neonates who had risk factors for EOI at the Department of Obstetrics and Gynecology, Hue University of Medicine and Pharmacy Hospital, from June 2023 to June 2024. Umbilical cord blood was taken for count blood cells analysis immediately after birth. Clinical and paraclinical features were monitored for 72 hours, then divided into 2 groups: 1) EOI group (n=40) and 2) non-EOI group (n=43). Results: The common clinical symptoms were tachypnea (77.5%), chest retraction (57.6%), vomiting (40.0%), poor feeding (32.5%), jaundice in 24h of life (75.6%). The white blood cell (WBC), red blood cell (RBC), Hemoglobin (Hb), Hematocrit (Hct) and platelets (PLT) in the umbilical cord blood of the EOI group were 12.65 ± 6.38 G/l; 4.29 ± 0.52 T/l; 152.77± 19.12 g/l; 46.89± 5.77%; 198.98 ± 96.74 G/l. There was a positive correlation between the WBC, neutrophils, lymphocytes, Hb, MCV, Hct, and PLT between umbilical cord blood and peripheral blood in the EOI group (p < 0.001). Conclusion: The symptoms of EOI were various. There was a statistically significant positive correlation between some hematological parameters of umbilical cord blood and peripheral blood in EOI.

TTKHCNQG, CVv 46