Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  22,435,405
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

Dân tộc học

Tạ Văn Thông, Tạ Quang Tùng(1)

Họ của người Ra-glai

Surname of Ra-glai people

Tạp chí Nghiên cứu dân tộc - Học viện Dân tộc

2020

03

115-121

0866-773X

Trong ngôn ngữ và văn hóa tinh thần của dân tộc Ra-glai, họ (và tên) người cần được chú ý từ nhiều phương diện. Đằng sau những từ ngữ rất đặc biệt này là đời sống xã hội và văn hoá một thời, đồng thời phản ánh phần nào lối tri nhận về thế giới của người Ra-glai. “Họ” người Ra-glai vốn để gọi các “vật thiêng”, “vật bảo trợ”, là totem hoặc có đặc tính của các totem (sự vật hay hiện tượng tự nhiên được người xưa tin là có mối liên hệ với thần linh, có sự gần gũi máu mủ với mình và coi là biểu tượng thiêng liêng của mình). Qua các huyền thoại, có thể thấy “họ” gốc của người Ra-glai thường mang tính “nữ”, gắn với những dấu tích của hình thái đại gia đình trong các thị tộc mẫu hệ. Các “họ” Ra-glai hiện đang trong quá trình bảo lưu và biến đổi, được Việt hóa theo cách “chuyển âm, dịch nghĩa”. Sự “tiếp biến văn hóa” này có thể khiến cho một số nét văn hóa Ra-glai không còn nguyên bản.

In the language and spiritual culture of Ra-glai people, the surname (and first name) need to be paid attention f-rom many aspects. Behind these very special words is social and cultural life, which partly reflects the perception of the world of Ra-glai people. Raglai “surname” are often referred to as “sacred objects” or “patrons”, are totems or c-haracteristics oftotems (things or natural phenomenas believed to be related to gods by the ancients, have a close bloody relation and be considered as their own sacred symbols). Through legends, it can be seen that the original “surnames” of the Raglai often contain “female”c-haracteristics, associated with the traces of the great family form in matriarchal clans. “Surnames” of the Ra-glai that are currently in the process of reservation and transformationare Vietnamized by “transliteration, translation”. This “cultural continuity” may make some of the Raglai culture no longer be “original”.

TTKHCNQG, CVv 492

  • [1] (1993), Những vấn đề chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam,
  • [2] Tuệ, H. (1984), Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam và chính sách ngôn ngữ,
  • [3] Triết, N. T. (1991), Người Raglai ở Việt Nam,
  • [4] Thông, T. V.; Tùng, T. Q. (2017), Ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam,
  • [5] Thông, T. V. (2009), Tiếng Ra-glai ở các địa phương,Trong Tìm hiểu ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam
  • [6] Thomas, D., Lee, E. W.; Liêm, N. Đ. (1977), Papers in South East Asian Linguistics, No4 Chamic Studies,Department of Linguistics Research School of Pacific Studies (The Australian National University)
  • [7] Tân, M. (2019), Người sáng tạo chữ viết Raglai được phong tặng danh hiệu nghệ nhân ưu tú,Truy cập 28/6/2019 từ website: https:// tuoitre.vn/nguoi-sang-tao-chu-viet-raglaiduoc-phong-tang-danh-hieu-nghe-nhan-uutu-20190628163827427.htm.
  • [8] Sang, N. T. (1993), Truyện cổ Raglai,
  • [9] Romaine, S. (2007), Preserving Endangered Languages,Language and Linguistics Compass, 1(1–2), 115–132
  • [10] Maxwell. (1969), Bài học tiếng Rơglai – Northern Roglai Language Lessons,Viện Chuyên khảo Ngữ học mùa hè. Sài Gòn
  • [11] Ladefoged, P. (1992), Another view of endangered languages,Language, 68(4), 809–811
  • [12] Gregerson, J.K. (1993), Viện Ngôn ngữ học mùa hè trong công cuộc xoá mù chữ đối với các dân tộc ở Việt Nam: cách nhìn lịch sử và phương pháp luận,Trong Giáo dục ngôn ngữ và sự phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số phía Nam