Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  24,686,744
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

34.33.33

Động vật học

Võ Văn Quang(1), Lê Thị Thu Thảo, Nguyễn Thị Tường Vi, Trần Thị Hồng Hoa, Nguyễn Phi Uy Vũ(2), Trần Công Trịnh

Đa dạng thành phần loài và hiện trạng khai thác họ cá mú (Serranidae) vùng biển ven bờ Đà Nẵng và Quảng Nam

Diversity and catching status of grouper (Serranidae) in coastal waters of Da Nang and Quang Nam

Khoa học và Công nghệ Biển

2016

4

405-417

1859-3097

Thành phần loài thuộc họ cá mú (Serranidae) ở vùng biển ven bờ Đà Nẵng và Quảng Nam khá đa dạng, có 6 giống với 30 loài (vùng biển ven bờ Đà Nẵng có 21 loài và Quảng Nam có 25 loài) chiếm 60 phần trăm thành phần loài thuộc họ cá mú ở vùng rạn san hô Việt Nam (50 loài) và bằng 42 phần trăm số loài ở vùng biển Việt Nam (72 loài), bằng 24 phần trăm số lượng loài thuộc họ cá mú ở Biển Đông (126 loài). Trong đó, giống cá song Epinephelus có số lượng loài nhiều nhất, với 17 loài. Số loài cá mú ở vùng biển ven bờ của Đà Nẵng và Quảng Nam đa dạng hơn các khu vực phía bắc như Quảng Ninh, ven bờ Bắc Trung Bộ; đồng thời cũng có số lượng loài nhiều hơn ở vùng rạn san hô quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên thấp hơn vùng biển ven bờ Khánh Hòa (36 loài). Thành phần loài cá mú ở vùng biển ven bờ Đà Nẵng và Quảng nam có mức tương đồng cao với các khu vực ở phái bắc như Quảng Ninh, vùng biên ven bờ Bắc Trung Bộ và Hồng Kông; có mức tương đồng thấp hơn so với vùng rạn san hô ven bờ Nam Trung Bộ, rạn san hô quần đảo Trường Sa, rạn san hộ việt Nam và vùng biển Việt Nam; thấp nhất là với Đài Loan. Các loài thường xuyên bắt gặp là cá mú kẻ mờ (Cephalopholis boenak) chiếm 43 phần trăm, loài cá song gio (Epinephelus awoara): 18 phần trăm và loài cá mú (E. stictus): 16 phần trăm. Chiều dài khai thác các loài cá mú nhìn chung đều tập trung ở nhóm loài có kích thước nhỏ, một số loài có kích thước lớn cũng bị đánh bắt khi chưa đạt tới kích thước chưa thành thục sinh dục như cá song gio (E. coioides), cá mú điểm gai (E. malabaricus), cá mú nâu (E. bruneus).

The serranid species composition of the family Serranidae recorded in coastal areas of Da Nang and Quang Nam was diverse with 30 species of six genera (21 species recorded in Da Nang and 25 species found in Quang Nam), which occupies 60 percent of the grouper species known from the coral reef of Vietnam (50 species), 42 percent of the recognized species from Vietnam's sea waters (72 species) and 24 percent of recognized grouper species from the East Vietnam Sea (126 species). Additionally, the genus Epinephelus is the most diverse with 17 species. The groupers recorded from Da Nang and Quang Nam waters are more diverse compared with those from northern waters, such as Quang Ninh and coastal zone of North Central area. The serranid species (groupers) recorded in coastal areas of Da Nang and Quang Nam have a high similarity with those in regions in the north, such as Quang Ninh, coastal waters of the North Central coastal zone, Hong Kong. However, they have lower levels of homology with those in regions in the south, including the reef of South Central coastal zone, coral reef in Truong Sa archipelago, coral reefs of Vietnam and they have the lowest level of homology with those in Taiwan. The serranid species commonly caught in Da Nang and Quang Nam are Chocolate Hind (Cephalopholis boenak) 43 percent Yellow grouper (E. awoara) 18 percent and Black-dotted grouper (E. stictus) 16 percent. The length of groupers caught is generally targeted in small species and juveniles (unmatured size) of large species as Yellow grouper (Epinephelus awoara), Dusky tail grouper (E. bleekeri), Orange-spotted grouper (E. coioides), Malabar grouper (E. malabaricus) and Longtooth grouper (E. bruneus).

TTKHCNQG, CVv250