Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  22,998,008
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

Công nghệ sinh học liên quan đến thao tác với các tế bào, mô, cơ quan hay toàn bộ sinh vật; công nghệ tế bào gốc

Nguyễn Thị Ngọc Hương(1), Trần Hùng, Trương Thị Đẹp

Nuôi cấy dòng tế bào mô sẹo cây tam thất hoang (Panax stipuleanatus H.T.Tsai et K.M.Feng) để tạo phôi vô tính

Culture of callus cell line for somatic embryogenesis in Panax stipuleanatus H.T.Tsai et K.M.Feng

Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh

2022

3-CD1

20-28

1859-1779

Tam thất hoang (Panax stipuleanatus H.T.Tsai et K.M.Feng), loài cây thuốc quý hiếm với công dụng bồi bổ sức khỏe, chống ung thư đang có nguy cơ bị tuyệt chủng. Vì vậy, việc nuôi cấy dòng tế bào mô sẹo Tam thất hoang có khả năng sinh phôi, hướng tới việc nhân giống bằng phôi vô tính trên quy mô lớn giúp bảo tồn loài cây thuốc này trong tương lai. Mục tiêu là nghiên cứu đặc điểm hình thái, đặc tính sinh lý, sự thay đổi kích thước của tế bào mô sẹo trong quá trình tăng trưởng và phát sinh phôi, từ đó xác định độ tuổi và kích thước các tế bào có thể sinh phôi. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô sẹo 26 tuần tuổi nuôi cấy trên môi trường 2,4-D 0,5 mg/L liên tục 26 tuần để phân tích các chỉ tiêu hình thái, kích thước và sinh lý của tế bào. Mô sẹo ở thời điểm 0, 4 và 6 tuần sau cấy chuyền được chuyển sang môi trường NAA 0,5 mg/L để khảo sát khả năng tạo phôi. Kết quả: Mô sẹo 4 tuần sau cấy chuyền có kích thước 17-20 μm, mang đặc tính tế bào sinh phôi, tạo phôi sau 24 tuần trên môi trường NAA 0,5 mg/L. Kết luận: Mô sẹo đủ 26 tuần tuổi, 4 tuần sau cấy chuyền với các tế bào có kích thước 17-20 μm có khả năng tạo phôi.

Panax stipuleanatus, a rare medicinal plant with health-promoting and anti-cancer effects, is in danger of extinction. Therefore, culturing the embryonic callus cell line, towards large-scale clonal propagation, helps to preserve this medicinal plant in the future. Objectives are to study on morphological, physiological characteristics and size changes of callus during growth and embryogenesis, thereby determining the age and size of embryogenic callus. Materials and methods: 26 week-old callus was continuously cultured on the medium with 2,4-D 0.5 mg/L to analyze the morphological characteristics, size and physiological parameters of the cells. Callus at 0, 4 and 6 weeks after the subculture was transferred to the medium with 0.5 mg/L NAA to investigate the embryogenesis. Results: Callus 4 weeks after subculture was 17-20 μm in size, with embryogenic characteristics, and created embryos after 24 weeks on 0.5 mg/L NAA medium Conclusions: 26 week-old callus, at 4 weeks after subculture with cells with average size 17-20 μm capable of forming embryos.

TTKHCNQG, CVv 395