Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  24,041,808
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

Nuôi dưỡng động vật nuôi

Trương Văn Hiểu, Nguyễn Quốc Bảo, Nguyễn Thanh Lãm(1), Trần Ngọc Bích, Nguyễn Thị Kim Quyên

Hiện trạng chăn nuôi bò sinh sản tại huyện Mỏ Cày Bắc và Giồng Trôm tỉnh Bến Tre

Current status of the reproductive cattle in Mo Cay Bac and Giong Trom district, Ben Tre province

Khoa học Công nghệ Chăn nuôi

2022

133

43-53

1859-0802

Nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá hiện trạng chăn nuôi, tình hình bệnh tiêu chảy và sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi bò sinh sản tại huyện Mỏ Cày Bắc và Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Khảo sát được thực hiện từ tháng 11/2021 đến tháng 01/2022 trên 180 hộ chăn nuôi bò sinh sản với tổng số 884 con bò. Các số liệu sơ cấp và thứ cấp được thu thập thông qua phương pháp điều tra cắt ngang và điều tra hồi cứu. Kết quả cho thấy số lượng của đàn bò tại tỉnh Bến Tre tăng đều qua các năm từ 2018-2021, trung bình 1,82%/năm. Quy mô chăn nuôi trung bình tại các hộ ở huyện Mỏ Cày Bắc và Giồng Trôm tương ứng là 4,45±1,96 con/hộ và 5,14±2,98 con/hộ, trong đó tỷ lệ bò cái sinh sản chiếm 48,3-52,2%. Tất cả các hộ chăn nuôi đều áp dụng phương thức chăn nuôi nhốt và thụ tinh nhân tạo cho bò. Tỷ lệ hộ chăn nuôi có chuồng trại kiên cố: 65,8-70,0%, lập sổ ghi chép trong thai kỳ của bò: 86,7-90,0%, đở đẻ cho bò: 71,7-77,5%, bán bê <12 tháng tuổi: 72,5-76,7% và tiêm phòng bệnh viêm da nổi cục: 91,7-94,2%. Tỷ lệ bệnh tiêu chảy trên đàn bò của hai huyện dao động từ 22,2-25,8%, trong đó bê dưới 12 tháng tuổi mắc bệnh tiêu chảy nhiều nhất. Các hộ chăn nuôi bò sử dụng kháng sinh với mục đích điều trị bệnh cao nhất: 75,8-81,7%. Các loại kháng sinh được sử dụng nhiều nhất là Colistin: 40,8-45,0%, Ampicillin: 28,3-35,0%, Tetracyclin: 15,8-21,7% và Streptomycin 15,0-16,7%.

The present study was conducted to evaluate the current status of livestock production, the situation of diarrhea disease, and the use of antibiotics in reproductive cattle in Mo Cay Bac and Giong Trom districts, Ben Tre province. The survey was performed from November 2021 to January 2022 on 180 reproductive cattle households with a total of 884 cattle. Primary and secondary data were collected via cross-sectional and retrospective methods, respectively. The results indicated that the number ofcattle in Ben Tre province increased steadily over the period from 2018 to 2021, an average of 1.82% per year. The average herd size of households in Mo Cay Bac and Giong Trom district was respectively 4.45±1.96 heads/household and 5.14±2.98 heads/household, in which the percentage of reproductive cattle accounted for 48.3-52.2%. All households applied the captive method and artificial insemination for their reproductive cattle. The proportion of households with steady stables: 65.8-70.0%, making a logbook in the pregnancy period of cows: 86.7-90.0%, helping cows give birth: 71.7- 77.5%, selling calves under 12 months old: 72.5-76.7%, and vaccinated the lumpy skin disease: 91.7-94.2%. The prevalence of diarrhea in cattle in two districts ranged from 22.2 to 25.8%, in which calves under 12 months old suffer from diarrhea the most. The households used antibiotics for the highest treatment of diseases: 75.8-81.7%. The households used the most antibiotics were Colistin: 40.8-45.0%, Ampicillin: 23.3- 35.0%, Tetracycline: 15.8-21.7%, and Streptomycin: 15.0-16.7%.

TTKHCNQG, CVv 25