Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  25,697,676
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

76

Hệ tim mạch

BB

Mai Duy Tôn(1), Lưu Văn Nam, Nguyễn Quốc Dũng

Nâng cao năng lực cấp cứu đột quỵ não tại các bệnh viện tuyến huyện thuộc tỉnh Hà Giang

Improving emergency care capacity for stroke patients at district hospitals in Ha Giang Province

Tạp chí Y học Việt Nam (Tổng hội Y học Việt Nam)

2025

2

124-129

1859-1868

Đánh giá kết quả nâng cao năng lực cấp cứu đột quỵ não tại các bệnh viện tuyến huyện thuộc tỉnh Hà Giang. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, theo dõi dọc các bệnh nhân đột quỵ não được cấp cứu và điều trị tại các bệnh viện: Bắc Quang, Vị Xuyên, Yên Minh, Đồng Văn, Quang Bình, Hoàng Su Phì, Đức Minh, Bắc Mê và Bệnh viện Đa khoa tỉnh của Hà Giang từ tháng 3/2024-12/2024. Kết quả: 177 lượt bệnh nhân đột quỵ được cấp cứu với 167 bệnh nhân đột quỵ não. Số lượt cấp cứu đột quỵ não cao nhất tại bệnh viện đa khoa tỉnh (42,9%) và không đồng đều giữa các bệnh viện huyện. Số ca đột quỵ vào viện có xu hướng tăng theo tháng, đặc biệt ở các bệnh viện huyện. Các bệnh viện huyện chuyển bệnh viện tỉnh 22,4% bệnh nhân đột quỵ não và bệnh viện tỉnh cần chuyển bệnh viện trung ương 5,26% bệnh nhân. Lượng bệnh nhân cần chuyển tuyến trên điều trị chủ yếu là chảy máu não và chảy máu dưới nhện. Trong 167 bệnh nhân đột quỵ não có 65,3% là nam, và 12% bệnh nhân trẻ dưới 45 tuổi. Tỷ lệ bệnh nhân nhồi máu não, chảy máu não, chảy máu dưới nhện lần lượt là 55,7%. 38,2% và 6,1%. Có 19,3% bệnh nhân nhồi máu được điều trị tái tưới máu; 3,1% bệnh nhân chảy máu não được phẫu thuật và 40% bệnh nhân chảy máu não được can thiệp. Sau 90 ngày, tỷ lệ bệnh nhân có kết cục chức năng thần kinh tốt là 49,1% trong đó bệnh nhân nhồi máu não có kết cục tốt cao nhất là 54,8%. Kết luận: Khả năng điều trị đột quỵ não của các bệnh viện là khác nhau, khả năng cấp cứu đột quỵ của các bệnh viện có xu hướng tăng đặc biệt là các bệnh viện huyện; năng lực điều trị nhồi máu não là cao nhất trong 3 thể đột quỵ.

To evaluate the results of improving the capacity of emergency stroke care at district hospitals in Ha Giang (HG) province. Methods: Cross-sectional descriptive study, longitudinal follow-up of stroke patients who were given emergency care and treated at hospitals in HG province: Bac Quang, Vi Xuyen, Yen Minh, Dong Van, Quang Binh, Hoang Su Phi, Duc Minh and HG Provincial General Hospital from March 2024 to December 2024. Results: 177 examinations with 167 stroke patients were treated. The rate of stroke emergencies was highest at the provincial general hospital (42,9%) and uneven among district hospitals. The number of stroke cases admitted to hospitals has trended to increase by month. District hospitals transferred 2,4% of stroke patients to the provincial hospital and the provincial hospital transferred 5,3% of patients to the central hospitals. Patients who were transferred were mainly ICH and SAH. Men accounted for 62,3% and young patients under 45 years old for mde up 12% of participants. The rates of ischemic stroke, ICH and SAH were 55,7%; 38,2% and 6,1% respectively. 19,3% of ischemic stroke patients were treated reperfusion therapy and 3,1% of ICH patients underwent surgery and 40% of SAH patients underwent intervention. After 90 days, the proportion of stroke patients with good neurological outcomes was 49,1% and the best was ischemic stroke (54,8%). Conclusion: The abilities to treat stroke of hospitals were different. The abilities of hospitals to provide stroke emergency care have tended to increase, especially at district hospitals. The emergency competency to treat ischemic stroke was best among the three types of stroke.

TTKHCNQG, CVv 46