



- Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam
76
Thần kinh học lâm sàng
BB
Nguyễn Thị Thanh Huyền, Nguyễn Văn Liệu
Đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị động kinh trên phụ nữ có thai ở Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh – Hà Nội
Clinical c-haracteristics and treatment outcomes of epilepsy in pregnant women at Tam Anh General Hospital – Hanoi
Tạp chí Y học Việt Nam (Tổng hội Y học Việt Nam)
2025
CD1
240-247
1859-1868
Mô tả đặc điểm lâm sàng động kinh trên phụ nữ có thai tại bệnh viện đa khoa Tâm Anh và nhận xét kết quả điều trị, quá trình thai nghén của nhóm đối tượng nghiên cứu trên. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả chùm ca bệnh trên 32 bệnh nhân phụ nữ có thai được chẩn đoán động kinh khám tại bệnh viện đa khoa Tâm Anh. Kết quả: Độ tuổi trung bình của phụ nữ có thai bị động kinh khi đến khám là 29,19 ± 4,84, trong đó có 12,5% trường hợp trên 35 tuổi. 46,9% trường hợp có cơn động kinh co cứng – co giật toàn thể, 31,3% động kinh khởi phát cục bộ tiến triển co cứng co giật hai bên. Tỷ lệ kiểm soát cơn trước thai kỳ tương đối tốt, với 59,4% có ít hơn 2 cơn mỗi tháng và 43,8% không có cơn trong vòng trên 1 năm. Tỷ lệ bệnh nhân bị tăng cơn co giật trong thai kỳ ở quý 1, quý 2 và quý 3 lần lượt là 12,5%, 18,8%, 18,8%. Trong khi đó 56,3% trường hợp có tần suất cơn giật ổn định trong suốt thai kỳ. Hầu hết bệnh nhân được sử dụng Levetiracetam và Lamotrigine trong thai kỳ. 81,2% bệnh nhân dùng đa trị liệu, tất cả bệnh nhân đều được bổ sung acid folic, trong đó có 34,4% trường hợp được bổ sung trước thai kỳ. Tỉ lệ dị tật trẻ sơ sinh thấp với chỉ 1 trường hợp ghi nhận dị tật thận móng ngựa. Kết luận: 78,2% bệnh nhân có cơn động kinh co cứng co giật toàn thể hoặc động kinh co giật cục bộ tiến triển co cứng co giật hai bên. Đa số bệnh nhân có tần suất cơn co giật ít hơn 2 cơn/tháng và ít biến chứng đáng kể. Hầu hết các bệnh nhân đều được sử dụng thuốc chống động kinh an toàn như Levetiracetam và Lamotrigine và tất cả đều được bổ sung acid folic khi mang thai. Tỉ lệ dị tật trẻ sơ sinh và biến cố xảy ra lúc chuyển dạ thấp ở các đối tượng tham gia nghiên cứu.
To c-haracterize the clinical presentation of epilepsy in pregnant women managed at Tam Anh General Hospital, and to assess treatment efficacy and the maternal-fetal course throughout gestation in this study population. Methods: A descriptive case series study was conducted on 32 pregnant women diagnosed with epilepsy who were evaluated at Tam Anh General Hospital. Results: The mean age of pregnant women with epilepsy at the time of presentation was 29.19 ± 4.84 years, with 12.5% of cases aged over 35. Generalized tonic–clonic seizures were observed in 46.9% of cases, while 31.3% presented with focal to bilateral tonic–clonic seizures. Seizure control prior to pregnancy was relatively good, with 59.4% experiencing fewer than two seizures per month and 43.8% being seizure-free for more than one year. The proportions of patients who experienced increased seizure frequency during the first, second, and third trimesters were 12.5%, 18.8%, and 18.8%, respectively. In contrast, 56.3% of cases maintained stable seizure frequency throughout pregnancy. Most patients were treated with levetiracetam and lamotrigine during pregnancy. Polytherapy was used in 81.2% of patients. All patients received folic acid supplementation, with 34.4% receiving it prior to conception. The rate of congenital anomalies was low, with only one case of horseshoe kidney reported. Conclusion: A total of 78.2% of patients experienced generalized tonic–clonic seizures or focal to bilateral tonic–clonic seizures. The majority had a seizure frequency of fewer than two episodes per month and experienced minimal complications. Most patients were treated with pregnancy-safe antiepileptic drugs such as levetiracetam and lamotrigine, and all received folic acid supplementation during pregnancy. The rates of congenital anomalies and peripartum complications were low among the study participants.
TTKHCNQG, CVv 46