



- Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam
76
Thần kinh học lâm sàng
BB
Nguyễn Sỹ Lánh, Nguyễn Quốc Đạt, Lê Đức Anh, Nguyễn Tùng Ngọc, Nguyễn Thị Yến, Trần Hải Anh, Hồ Thị Hà, Trần Đình Văn
Đặc điểm mô bệnh học tổn thương động kinh được phẫu thuật tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức
Histopathological c-haracteristics of epileptic lesions surgeryed at Viet Duc University Hospital
Y học Cộng đồng
2025
9
40-45
2354-0613
Động kinh là một trong những bệnh lý thần kinh nghiêm trọng phổ biến nhất toàn cầu với gánh nặng ngày càng tăng và ảnh hưởng đến hầu hết mọi lứa tuổi. Giải phẫu bệnh sau phẫu thuật động kinh đóng vai trò quan trọng trong việc xác định nguyên nhân gây động kinh và hướng dẫn điều trị cũng như cung cấp thông tin cần thiết cho nghiên cứu về cơ chế gây động kinh và phát triển các phương pháp điều trị mới. Mục tiêu: Đánh giá tổn thương mô bệnh học trên bệnh nhân được phẫu thuật động kinh và một số đặc điểm lâm sàng. Đối tượng và phương pháp: Mô tả cắt ngang trên 46 bệnh nhân phẫu thuật điều trị động kinh được làm xét nghiệm mô bệnh học tại Khoa Giải phẫu bệnh, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức trong thời gian từ tháng 1/2024 đến tháng 12/2024. Kết quả: Độ tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 21,98 ± 9,381, tỷ lệ nam/nữ = 1,7. Cơn động kinh khởi phát có tiền triệu và không có tiền triệu lần lượt là 41,3% và 58,7%, tất cả các trường hợp đều là cơn động kinh cục bộ. Triệu chứng hay gặp nhất trong cơn là mất ý thức đột ngột (93,5%), quay mắt hoặc quay đầu sớm (47,8%), động tác tự động (45,7%). Xơ hóa hải mã chiếm 30,4%, loạn sản vỏ não khu trú (19,6%), u thần kinh đệm (23,9%), u biểu mô thần kinh nghịch sản phôi (4,3%). Xơ hóa hải mã phối hợp loạn sản vỏ não khu trú (13%), xơ hóa hải mã phối hợp u thần kinh đệm (6,5%), xơ hóa hải mã phối hợp u biểu mô thần kinh nghịch sản phôi (2,2%). Kết luận: Động kinh có thể khởi phát ở mọi lứa tuổi, thường ưu thế ở nhóm tuổi trẻ từ 10-29 tuổi, không có khác biệt giữa hai giới. Dạng cơn lâm sàng hay gặp là cơn cục bộ mất ý thức. Tổn thương giải phẫu bệnh hay gặp là xơ hóa hải mã và loạn sản vỏ não khu trú.
Epilepsy is one of the most common and serious neurological disorders worldwide, with an increasing burden and affecting nearly all age groups. Histopathological examination after epilepsy surgery plays an important role in determining the cause of epilepsy, guiding treatment, and providing essential information for research into epileptogenic mechanisms and the development of new therapeutic approaches. Objective: To evaluate histopathological lesions in patients undergoing epilepsy surgery and several clinical c-haracteristics. Subjects and methods: A cross-sectional descriptive study on 46 patients who underwent epilepsy surgery and histopathological examination at the Department of Pathology, Viet Duc University Hospital, f-rom January 2024 to December 2024. Results: The mean age of the study group was 21.98 ± 9.381 years, with a male-to-female ratio of 1.7. The proportion of seizures with and without aura was 41.3% and 58.7%, respectively. All patients presented with focal seizures. The most common symptoms were sudden loss of consciousness (93.5%), early eye or head deviation (47.8%), and automatisms (45.7%). Hippocampal sclerosis accounted for 30.4%, focal cortical dysplasia for 19.6%, glioma for 23.9%, and dysembryoplastic neuroepithelial tumor for 4.3%. Hippocampal sclerosis combined with focal cortical dysplasia accounted for 13%, hippocampal sclerosis combined with Glioma for 6.5%, and hippocampal sclerosis combined with dysembryoplastic neuroepithelial tumor for 2.2%. Conclusion: Epilepsy can onset at any age but tends to be more prevalent in the younger age group f-rom 10 to 29 years, with no gender difference. The most common clinical seizure type is focal impaired awareness seizure. The most frequent histopathological findings are hippocampal sclerosis and focal cortical dysplasia.
TTKHCNQG, CVv 417