Lọc theo danh mục
liên kết website
Lượt truy cập
- Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam
76
Tiêu hoá và gan mật học
BB
Lê Thanh Dũng, Thân Văn Sỹ, Nguyễn Đình Thế, Nguyễn Văn Long, Bùi Hải Sơn, Trần Quang Lộc
Đánh giá kết quả can thiệp nút mạch trong điều trị chấn thương gan có tổn thương động mạch
Evaluation of transarterial embolization outcomes in the treatment of trauma hepatic with arterial injuries
Tạp chí Y học Việt Nam (Tổng hội Y học Việt Nam)
2025
2
50-55
1859-1868
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và hình ảnh học của nhóm bệnh nhân (BN) chấn thương gan được điều trị bằng can thiệp nút mạch. Đánh giá kết quả của phương pháp can thiệp nút mạch điều trị chấn thương gan. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, hồi cứu với đối tượng nghiên cứu là các BN chấn thương gan được nút mạch tại bệnh viện Hữu nghị Việt Đức từ tháng 1/2021 đến tháng 1/2025. Kết quả: Trong 104 BN có độ tuổi trung bình 32,48 ± 15,72 tuổi (5 – 76), chiếm chủ yếu là bệnh nhân nam gồm 74 BN (71,2%). Theo phân độ của Hội phẫu thuật cấp cứu thế giới (World Society of Emergency Surgery - WSES) năm 2020, gồm có 31 BN (28,4%) độ II, 72 BN (66,1%) độ III và 6 BN (5,5%) độ IV. Trong số 36 bệnh nhân cần truyền máu trước can thiệp, lượng máu trung bình là 3,39 ± 2,83 đơn vị. Thành công về mặt kỹ thuật sau lần nút mạch đầu tiên đạt 100%. Tỷ lệ thành công về lâm sàng ở lần nút mạch đầu tiên đạt 84,6%, có 1 trường hợp (1%) nút mạch lần hai và 14 BN (13.5%) chuyển mổ cấp cứu. Thời gian nằm viện trung bình là 15 ± 9,5 ngày. Các biến chứng bao gồm 02 BN rò mật, 01 BN biloma và 01 BN hoại tử túi mật kèm với hoại tử nhu mô gan, không có BN tử vong do nút mạch. Kết luận: Nút mạch trong điều trị chấn thương gan là phương pháp điều trị an toàn, đạt tỷ lệ thành công cao trong điều trị bảo tồn chấn thương gan. Phân loại chấn thương gan theo WSES năm 2020 giúp định hướng phương pháp điều trị.
This study aims to analyze the clinical, laboratory, and imaging c-haracteristics of patients with hepatic trauma who underwent transarterial embolization. Additionally, it evaluates the outcomes of embolization in the management of hepatic trauma. Materials and Methods: A cross-sectional descriptive study was conducted on 104 patients with hepatic trauma who underwent embolization at Viet Duc Hospital f-rom January 2021 to January 2025. Results: Among the 104 patients, the average age was 32.48 ± 15.72 years (range: 5-76 years). The majority were male, comprising 74 patients (71.2%). According to the World Society of Emergency Surgery (WSES) classification f-rom 2020, the distribution was as follows: 31 patients (28.4%) were grade II, 72 patients (66.1%) were grade III, and 6 patients (5.5%) were grade IV. Among the 36 patients requiring blood transfusion prior to intervention, the average blood volume transfused was 3.39 ± 2.83units. Technical success after the first embolization attempt was 100%. Clinical success at the first embolization was achieved in 84.6% of cases. One patient (1%) required a second embolization, and 14 patients (13.5%) were converted to surgical intervention. The average length of hospital stay was 15 ± 9.5 days. Complications included 2 patients with bile leaks, 1 patient with biloma, and 1 patient with gallbladder necrosis accompanied by liver parenchyma necrosis. There were no deaths related to embolization. Conclusion: Angiographic embolization is a safe and effective treatment for hepatic trauma, achieving high success rates in hepatic trauma conservation. The 2020 WSES classification system aids in guiding treatment strategies.
TTKHCNQG, CVv 46
