Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  30,220,830
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

Sinh lý học y học

Phạm Đức Minh, Đặng Nhật Minh, Trịnh Đắc Hoành, Đỗ Vĩnh Trường(1), Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Hữu Tùng, Bùi Thị Nhung, Vũ Duy Nhàn

Nghiên cứu một số chỉ số hóa sinh máu và nhân trắc ở vận động viên thể thao đội tuyển quốc gia Việt Nam

Tạp chí Y học Việt Nam (Tổng hội Y học Việt Nam)

2022

CD2

130-136

1859-1868

Đánh giá sự thay đổi một số chỉ số hóa sinh máu và chỉ số nhân trắc ở vận động viên thể thao đội tuyển quốc gia Việt nam. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 37 vận động viên (VĐV) tại Trung tâm Huấn luyện thể thao Quốc gia. Đo nhân trắc, lấy máu xét nghiệm nồng độ sắt, kẽm, canxi và vitamin D trong máu. Kết quả: Chỉ số khối cơ thể của nhóm cử tạ cao nhất (24,8), sau đó đến nhóm điền kinh (19,8) và thấp nhất là nhóm thể dục dụng cụ (16,4). Tương tự, chỉ số lực cơ tay (kg) ở nhóm VĐV cử tạ cao nhất (45,4), sau đó đến nhóm điền kinh (36,8) và thấp nhất là nhóm thể dục dụng cụ (19,0). Tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng còn khá phổ biến ở vận động viên: thiếu canxi ion (78%), thiếu kẽm (43,5%), canxi toàn phần thấp (17%). Nồng độ chung Vitamin D của vận động viên ở mức thiếu (39,6±12,7nmol/L), trong số 78,3% số vận động viên thiếu Vitamin D, bao gồm cả thiếu (47,8%) và cạn kiệt (30,4%). Kết luận: Nhóm vận động viên đỉnh cao có chỉ số thể hình phù hợp với đặc trưng môn thể thao chuyên sâu. Xét nghiệm huyết thanh vận động viên thấy vi chất hay thiếu là canxi, kẽm, đặc biệt phần lớn vận động viên thiếu và cạn kiệt Vitamin D sau thời gian tập cường độ cao.

TTKHCNQG, CVv 46

  • [1] Burke, L.M., (2001), Energy needs of athletes,Can J Appl Physiol, 2001. 26 Suppl: p. S202-19.
  • [2] Burke, L.M., et al., (2003), Eating patterns and meal frequency of elite Australian athletes,Int J Sport Nutr Exerc Metab, 2003. 13(4): p. 521- 38.