Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  25,691,213
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

76

Khoa học về chăm sóc sức khoẻ và dịch vụ y tế

Đoàn Thị Phương Thảo, Nguyễn Thị Minh Lý(1), Mai Minh Thường

Đánh giá thực trạng tuân thủ điều trị và một số yếu tố ảnh hưởng ở người bệnh tăng huyết áp khám ngoại trú tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội

Assessment of the status of treatment compliance and some factors affecting human results with high blood pressure outcome at hospital of Hanoi medical university

Tạp chí Y học Việt Nam (Tổng hội Y học Việt Nam)

2023

2

190-194

1859-1868

Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội trên 252 người bệnh tăng huyết áp đến khám và điều trị ngoại trú với mục tiêu mô tả thực trạng tuân thủ điều trị thuốc của người bệnh và mô tả một số yếu tố liên quan. Kết quả nghiên cứu cho thấy Tỉ lệ người bệnh tuân thủ điều trị thuốc là 55,95%, trong đó, tỉ lệ tuân thủ điều trị tốt và trung bình chiếm tỉ lệ lần lượt là 26,59% và 29,37%. Tỉ lệ người bệnh không tuân thủ điều trị chiếm 44,05%. Tỉ lệ người bệnh cảm thấy phiền toái khi phải sử dụng thuốc thường xuyên chiếm 37,3%. Có 35,3% người bệnh thường xuyên quên uống thuốc. Tỉ lệ tuân thủ điều trị thuốc ở giới nam cao hơn nữ có ý nghĩa thống kê với tỉ suất chênh là 1,7 lần, ở khoảng tin cậy 95% với p < 0,05. Kinh phí mua thuốc và tuân thủ điều trị thuốc liên quan có ý nghĩa thống kê ở khoảng tin cậy 95% với p < 0,05. Người bệnh và nhân viên y tế nên cởi mở, trao đổi thẳng thắn về kinh phí mua thuốc để phù hợp với từng hoàn cảnh và tuân thủ điều trị tốt hơn. Người bệnh có > 1 bệnh đồng mắc có tỉ lệ tuân thủ điều trị thuốc cao hơn nhóm không có bệnh lý đồng mắc có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Các bệnh lý đồng mắc thì các chuyên khoa đều có hướng dẫn, tư vấn điều trị nên người bệnh tuân thủ tốt hơn.

A cross-sectional descriptive study was carried out at Hanoi Medical University Hospital on 252 hypertensive patients who came for outpatient examination and treatment with the aim of describing the patient's status of drug adherence and describing a number of factors involved. The study results showed that the rate of patients adhering to drug treatment was 55.95%, in which, the rate of good and average adherence accounted for 26.59% and 29.37%, respectively. The proportion of patients who did not adhere to treatment accounted for 44.05%. The proportion of patients who felt inconvenienced when they had to use the drug regularly accounted for 37.3%. There are 35.3% of patients often forget to take medicine. The rate of drug adherence in men was statistically significant with a odds ratio of 1.7 times, at the 95% confidence interval with p < 0.05. Female patients should not be subjective with their health. Cost of drug purchase and adherence to drug treatment are statistically significant at the 95% confidence interval with p < 0.05. Patients and medical staff should openly and frankly discuss the cost of buying drugs to suit each situation for better treatment adherence. Patients with > 1 co-morbidities had a higher rate of drug adherence than the group without co-morbidities with statistical significance with p < 0.05. For co-morbid diseases, the specialists have guidance and treatment advice, so the patient adheres better.

TTKHCNQG, CVv 46