Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  24,041,808
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

68

Nuôi trồng thuỷ sản

Phan Phương Loan(1), Nguyễn Văn Tú

Hiệu quả nuôi cá rô phi thâm canh trong ao đất áp dụng công nghệ biofloc (BFT), chế phẩm sinh học và biện pháp kiểm soát mùi hôi

Efficiency of intensive tilapia culture in earthen ponds applied biofloc technology (BFT), probiotics and off-flavor control methods

Nông nghiệp và Phát triển (Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh)

2023

2

9-18

2615-9503

Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá hiệu quả của cá rô phi sông Nile và cá điêu hồng nuôi trong hệ thống thâm canh áp dụng kết hợp công nghệ biofloc (BFT) và men vi sinh trong ao đất với các phương pháp khác nhau để kiểm soát vấn đề mất mùi vị. Một thí nghiệm nuôi thương phẩm được tiến hành trong 150 ngày, trong đó cả cá rô phi sông Nile (5,88 ± 0,59 g) và cá rô phi đỏ (9,72 ± 0,72 g) được phân bổ ngẫu nhiên vào ba lần lặp lại ao đất và được chia thành bốn nhóm xử lý, bao gồm: kiểm soát mùi lạ bằng quản lý tảo trong ao nuôi cá rô phi sông Nile (NT - AM) và ao nuôi cá điêu hồng (RT - AM), và kiểm soát mùi lạ bằng cách trao đổi nước tích cực trong ao nuôi cá rô phi sông Nile (NT - WE) và ao nuôi cá điêu hồng (RT - CHÚNG TÔI). Kết quả cho thấy chất lượng nước được duy trì trong khoảng phù hợp cho sự phát triển của cá. Không có sự khác biệt đáng kể về hiệu suất tăng trưởng (trọng lượng cuối cùng, tăng trọng hàng ngày và tốc độ tăng trưởng cụ thể) giữa tất cả các nghiệm thức (P <0,05). Hệ số chuyển đổi thức ăn của cá rô phi sông Nile (1,28 - 1,31) thấp hơn đáng kể so với cá điêu hồng (1,35 - 1,37) (P < 0,05). Tỷ lệ sống (khoảng 80%) và năng suất ngoại suy (21,50 tấn/ha trong 150 ngày) của cá là tương đương và cao đối với cả cá rô phi và điêu hồng. Chất lượng của cá thu hoạch xét về yếu tố điều kiện, kích thước đồng đều và cường độ mùi vị cũng rất tuyệt vời. Hiệu quả kinh tế nuôi cá điêu hồng trong hệ thống này cao hơn so với hệ thống lồng bè. Nghiên cứu này đã chứng minh rõ ràng rằng kỹ thuật kết hợp BFT và ứng dụng men vi sinh trong ao đất có thể góp phần phát triển bền vững nghề nuôi cá rô phi ở Việt Nam bằng cách giảm chi phí sản xuất, tiết kiệm tài nguyên nước và tránh ô nhiễm môi trường.

 

The aim of this study was to assess the efficiency of Nile and red tilapia cultured in intensive systems applied a combination of biofloc technology (BFT) and probiotics in earthen ponds with different methods to control the off-flavor problem. A growing-out experiment was conducted for 150 days in which both Nile tilapia (5.88 ± 0.59 g) and red tilapia (9.72 ± 0.72 g) fingerlings were randomly allotted into three replicates of earthen ponds which were subdivided into four treatment groups, including: off-flavor controlled by algae management in Nile tilapia ponds (NT - AM) and red tilapia ponds (RT - AM), and off-flavor controlled by active water exchange in Nile tilapia ponds (NT - WE) and red tilapia ponds (RT - WE). The results showed that water quality was maintained in suitable ranges for fish growth. There were no significant differences in growth performance (final weight, daily weight gain and specific growth rate) among all treatments (< 0.05). Feed conversion ratio of Nile tilapia (1.28 - 1.31) was significantly lower than that of red tilapia (1.35 - 1.37) (P < 0.05). The survival ratio (about 80%) and extrapolated yield (21.50 tons/ha in 150 days) of fish was similar and high for both Nile and red tilapia. The quality of the harvested fish in term of condition factor, size even and off-flavor intensity was also excellent. The economic efficiency of red tilapia farming in this system was higher as compared to cage systems. This study clearly demonstrated that the technique of combined BFT and probiotic application in earthen ponds could contribute to the sustainable development of tilapia production in Vietnam by reducing production cost, saving water resource and avoiding environmental pollution.


 

TTKHCNQG, CTv 70