Lọc theo danh mục
liên kết website
Lượt truy cập
- Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam
76
Gây mê
BB
Phan Thị Minh Tâm, Phạm Thị Ngọc Diễm, Vũ Ngọc Vy
Gây mê trong phẫu thuật ghép gan trẻ em - kinh nghiệm tại Bệnh viện Nhi đồng 2
Anesthesia in pediatric liver transplantation - experiences of Children Hospital 2
Y học Cộng đồng
2025
13
7-13
2354-0613
Đánh giá kết quả thực hiện gây mê hồi sức trong phẫu thuật ghép gan trẻ em tại Bệnh viện Nhi Đồng 2: các kết quả đạt được và các thách thức trong gây mê hồi sức ghép gan trẻ em. Phương pháp: Tiến hành gây mê hồi sức trong phẫu thuật ghép gan ở trẻ em trong 3 giai đoạn từ 2005-2019, 2021-2022 và 2023-2025. Từ sự hỗ trợ của các bác sĩ gây mê hồi sức từ Bỉ ở giai đoạn đầu đến khi tự lực được về mặt gây mê hồi sức. Kết quả: Từ tháng 12/2005-6/2025 chúng tôi thực hiện gây mê cho 54 phẫu thuật ghép gan với người cho sống là 52 và người cho chết não là 2 ca trên 54 bệnh nhi bị suy gan giai đoạn cuối. Tuổi từ 7,5 tới 132 tháng ở trẻ nữ nhiều hơn nam (29/25). Cân nặng trung bình 11,5 kg (6,8-27 kg). Với 47 bệnh nhi là teo đường mật,1 hội chứng Allagile, 2 hội chứng Budd Chiari và 4 PFIC. Trong đó có 7 ca bị hội chứng gan - phổi, 2 bệnh nhi cao áp phổi và 1 bệnh nhi bị hội chứng gan - não. Tất cả các bệnh nhi đều bị rối loạn đông máu, có 10 bệnh nhi truyền máu lượng lớn. Thời gian gây mê trung bình là 11:25 (08:30-13:20). Rút nội khí quản vào ngày 1 và 2 sau mổ. Kết luận: Gây mê hồi sức đã góp phần mang lại thảnh công trong bước đầu phẫu thuật ghép gan trẻ em bị suy gan giai đoạn cuối tại Bệnh viện Nhi Đồng 2. Để đảm bảo an toàn hơn cho bệnh nhi cần có sự hiểu biết sâu sắc về sinh lý và chuyển hóa trong các bệnh lý suy gan giai đoạn cuối. Những thay đổi đáng kể trong mổ phải được xử trí kịp thời. Những thách thức trong tương lai là tiến hành gây mê hồi sức cho phẫu thuật ghép gan cấp cứu.Việc phối hợp chặt chẽ giữa ê kíp phẫu thuật và gây mê là quan trọng trong ghép gan trẻ em.
F-rom December 2005 to June 2025 we performed general anesthesia in pediatric liver transplant surgeries in 54 patients having end-stage liver disease (ESLD), with 52 living donnors and 2 deceased donnors. Patient age f-rom 7,5 to 132 months old in young female than male (29/25), and average weight 11,5kg (6,8-27 kg); With 47 patients had biliary atresia, 1 Alagille syndrome, 2 Budd Chiari syndromes and 4 PFIC. There were 7 cases having hepatopulmonary syndromes, 2 had pulmonary hypertension and 1 had hepatic encephalopathy. All of them had trouble of hemostasis that 10 patients were massive blood transfusions. The average duration of anesthesia was 11hours 25 minutes (08:30-13:20). Extubation were performed in the 1st or 2nd postoperative day. Conclusion: Anesthetic management was contributing to the initial success of pediatric liver transplantation f-rom living donor at Children Hospital 2. To ensure more safety for patients, it’s necessary to profoundly understand of the physiological and metabolic changes in ESLD. Remarkable changes during operation should be managed. Close communication between surgical team and the anesthesiologists is the most important issue in patient management.
TTKHCNQG, CVv 417
