Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  27,130,378
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

76

Tiêu hoá và gan mật học

BB

Phù Chí Dũng, Trần Thục Đoan, Trần Thị Thiên Kim

Khảo sát tình trạng tái hoạt viêm gan siêu vi B trên người bệnh hóa trị, ức chế miễn dịch, ghép tế bào gốc tại Bệnh viện Truyền máu Huyết học

Hepatitis B virus reactivation in patients treated with chemotherapy, immunosuppressive agents, and stem cell transplantation at the Blood Transfusion and Hematology Hospital

Tạp chí Y học Việt Nam (Tổng hội Y học Việt Nam)

2025

DB

476-485

1859-1868

Khảo sát đặc điểm lâm sàng và sinh học của người bệnh có nguy cơ tái hoạt viêm gan siêu vi B được điều trị hóa trị và/hoặc ức chế miễn dịch và/hoặc ghép tế bào gốc tạo máu cũng như xác định tỉ lệ tái hoạt viêm gan siêu vi B ở nhóm đối tượng này. Đối tượng và phương pháp: Thiết kế nghiên cứu mô tả loạt ca, hồi cứu. Nghiên cứu được thực hiện trên tất cả người bệnh trưởng thành nhiễm Viêm gan B mạn tính (HbsAg dương tính trên 6 tháng) hoặc người mang VGSV B tiềm ẩn (HbsAg âm tính, antiHBctotal dương tính) được điều trị hóa trị liệu và/hoặc ức chế miễn dịch và/hoặc nhắm trúng đích và/hoặc ghép tế bào gốc tạo máu được định lượng HBV DNA mỗi 3 tháng tại bệnh viện Truyền máu Huyết học từ 01 tháng 01 năm 2022 đến 31 tháng 12 năm 2024. Kết quả: Nghiên cứu bao gồm 230 người bệnh với thời gian theo dõi trung vị là 397 ngày. Tuổi trung vị của người bệnh là 53 tuổi (19-94 tuổi). Nhóm bệnh Lymphoma (23,5%), bạch cầu cấp dòng tủy (19,1%), giảm tiểu cầu miễn dịch và các bệnh lý tự miễn khác (15,2%) chiếm đa số. Hầu hết người bệnh (90,9%) có tổng trạng nền từ tốt đến khá điểm Eastern Cooperative Oncology Group (ECOG) < 1. 4,7% (11 ca) mắc bệnh lý nền liên quan đến gan như ung thư gan, xơ gan, viêm gan C. Tổng số ca nhiễm viêm gan B mạn tính là 146 ca (63,5%), trong đó 141 trường hợp (96,6%) được dự phòng thuốc kháng virus. Ở nhóm nhiễm viêm gan B mạn tính, tỷ lệ tái hoạt là 4,1% (6/146) bao gồm 1 ca không dự phòng kháng virus, 3 ca tự ý ngưng dự phòng và 2 ca vẫn tái hoạt dù đang dùng thuốc dự phòng; tỉ suất tái hoạt của nhóm là 3,4 mỗi 100 người-năm. Khi tiến hành phân tích hồi quy đa biến, việc mắc bệnh lý nền liên quan đến gan (p=0,001), ECOG > 1 (p=0,026) và không điều trị dự phòng thuốc kháng virus (p=0,006) là các yếu tố nguy cơ độc lập làm tăng khả năng tái hoạt. Trong số 84 trường hợp mang VGSV B tiềm ẩn, 80 người bệnh (95,2%) được dự phòng thuốc kháng virus, tỷ lệ tái hoạt của nhóm là 4,8% (4/84) bao gồm 2 ca tự ý ngưng dự phòng và 2 ca vẫn tái hoạt dù đang dùng kháng virus; tỉ suất tái hoạt là 2,8 mỗi 100 người-năm . Phân tích hối quy đa biến cho thấy việc phát hiện HBV DNA nền trước điều trị (p=0,028) là yếu tố nguy cơ độc lập làm tăng khả năng tái hoạt virus ở nhóm VGSV B tiềm ẩn. Kết luận: Việc theo dõi chặt chẽ, phát hiện sớm HBV DNA nền trước khi điều trị và ít nhất mỗi 3 tháng ở nhóm nguy cơ tái hoạt cao, tuân thủ nghiêm ngặt phác đồ dự phòng đóng vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt ở những người bệnh có bệnh lý gan nền hoặc tình trạng toàn thân kém.

To investigate the clinical and biological features of patients at risk of HBV reactivation who received chemotherapy, immunosuppressive therapy, or HSCT, and to determine the rate of HBV reactivation in this population. Methods: This was a retrospective case series study conducted at the Blood Transfusion and Hematology Hospital. Adult patients with chronic hepatitis B infection (HBsAg-positive for over six months) or occult HBV infection (HBsAg-negative, anti-HBc totalpositive) who underwent chemotherapy, immunosuppressive therapy, targeted therapy, and/or HSCT, with HBV DNA monitored every three months, were included. The study period was f-rom January 1, 2022, to December 31, 2024. Results: A total of 230 patients were enrolled, with a median follow-up of 397 days. The median age was 53 years (range: 19–94 years). Lymphoma (23.5%), acute myeloid leukemia (19.1%), and immune thrombocytopenia or other autoimmune diseases (15.2%) were the most common underlying conditions. Most patients (90.9%) had an ECOG performance status of <1. Among them, 4.7% (11 patients) had underlying liver diseases such as hepatocellular carcinoma, cirrhosis, or hepatitis C. There were 146 patients (63.5%) with chronic hepatitis B infection, with 96.6% (141 patients) receiving antiviral prophylaxis. The HBV reactivation rate in this group was 4.1% (6/146), corresponding to an incidence of 3.4 per 100 person-years. Multivariate regression analysis identified underlying liver disease (p=0.001), ECOG >1 (p=0.026), and lack of antiviral prophylaxis (p=0.006) as independent risk factors for HBV reactivation. Among the 84 patients with occult HBV infection, 95.2% (80 patients) received antiviral prophylaxis. The reactivation rate was 4.8% (4/84), with an incidence of 2.8 per 100 person-years. Detectable baseline HBV DNA prior to treatment (p=0.028) was found to be an independent risk factor for reactivation in the occult infection group. Conclusions: Close monitoring, early detection of baseline HBV DNA prior to treatment and at least every three months in high-risk patients, together with strict adherence to prophylactic regimens, are critically important, particularly in patients with underlying liver diseases or poor performance status.

TTKHCNQG, CVv 46