Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  25,518,712
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

76

Thần kinh học lâm sàng

BB

Vũ Thị Hinh, Vũ Thị Hoàng Yến, Nguyễn Thị Hải Yến, Nguyễn Ngọc Ánh, Nguyễn Văn Liệu

Nghiên cứu đặc điểm tần số đỉnh và liên quan với tuổi, giới ở nhóm bệnh nhân run nguồn gốc trung ương

Peak frequency c-haracteristics and associated factors in patients with central-origin tremor

Tạp chí Y học Việt Nam (Tổng hội Y học Việt Nam)

2025

CD1

222-228

1859-1868

Khảo sát đặc điểm tần số đỉnh và yếu tố liên quan như tuổi tác, giới tính ở bệnh nhân mắc các loại run có nguồn gốc trung ương. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả trên các bệnh nhân ≥18 tuổi đến khám tại bệnh viện đa khoa Tâm Anh Hà Nội từ tháng 3 năm 2024 đến tháng 6 năm 2025, được chẩn đoán run trung ương gồm bệnh Parkinson (PD), run vô căn (ET), và run loạn trương lực (DT). Tất cả bệnh nhân được đánh giá bằng gia tốc kế và điện cơ bề mặt đa pha. Kết quả: Tổng số 230 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn nghiên cứu, gồm 115 bệnh nhân PD, 70 ET và 45 DT. Run khi nghỉ phổ biến nhất ở nhóm PD (97,4%), trong khi run tư thế chiếm ưu thế ở nhóm ET (100%) và DT (97,8%). Run tần số đều chiếm tỷ lệ cao ở nhóm PD (96,5%) và ET (92,9%), trong khi run tần số không đều chiếm ưu thế trong nhóm DT (88,9%). Tần số đỉnh trung bình thấp nhất ở nhóm PD (5,02 ± 0,98 Hz), cao hơn ở nhóm DT (6,38 ± 1,59 Hz) và cao nhất ở nhóm ET (7,16 ± 1,61 Hz); sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,001). Nhóm PD ghi nhận hiện tượng run tái hoạt (75,7%) với tần số đỉnh 5.30 ± 1.03 Hz. Sau khi mang vật nặng, tần số đỉnh thay đổi lần lượt ở các nhóm: PD (0,25 ± 0.49 Hz), ET (0.15 ± 0,54 Hz), DT (0.13 ± 0.87 Hz). Có mối tương quan nghịch chiều giữa tần số đỉnh khi nghỉ và tuối trong nhóm run PD (r=-0.428, p< 0.001), giữa tần số đỉnh khi duy trì tư thế và tuổi trong nhóm ET (r= - 0.52, p< 0.001). Không có sự khác biệt về tần số đỉnh khi nghỉ, khi duy trì tư thế, và khi cử động giữa nam và nữ trong cả 3 nhóm (p > 0.05). Kết luận: Thông qua phân tích run, tần số đỉnh có giá trị trong phân biệt PD, ET, và DT. Có mối liên quan giữa tần số đỉnh với tuổi trong nhóm PD và ET.

To investigate the c-haracteristics of peak tremor frequency and its associated factors in patients with central-origin tremor. Subjects and Methods: A cross-sectional descriptive study was conducted on patients aged ≥18 years who visited Tam Anh General Hospital in Hanoi f-rom March 2024 to June 2025 and were diagnosed with central tremor, including Parkinson’s disease (PD), essential tremor (ET), and dystonic tremor (DT). All patients were evaluated using multi-channel surface electromyography and accelerometry. Results: A total of 230 patients met the inclusion criteria: 115 with PD, 70 with ET, and 45 with DT. Rest tremor was most common in the PD group (97.4%), while postural tremor predominated in the ET (100%) and DT (97.8%) groups. Regular-frequency tremor was prevalent in PD (96.5%) and ET (92.9%), whe-reas irregular-frequency tremor was more common in DT (88.9%). The lowest mean peak frequency was observed in the PD group (5.02 ± 0.98 Hz), followed by DT (6.38 ± 1.59 Hz), and highest in ET (7.16 ± 1.61 Hz), with statistically significant differences (p < 0.001). Re-emergent tremor was observed only in PD (75.7%), with a peak frequency of 5.30 ± 1.03 Hz. After loading (weight-bearing), changes in peak frequency were as follows: PD (0.25 ± 0.49 Hz), ET (0.15 ± 0.54 Hz), and DT (0.13 ± 0.87 Hz). A negative correlation was found between resting peak frequency and age in PD (r = -0.428, p < 0.001), and between postural peak frequency and age in ET (r = -0.52, p < 0.001). There were no significant differences in peak frequency at rest, during posture holding, or during action between males and females across all three groups (p > 0.05). Conclusion: Through tremor analysis, peak frequency is valuable in distinguishing PD, ET, and DT. There is an association between peak frequency and age in the PD and ET groups.

TTKHCNQG, CVv 46