Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  25,078,958
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

Nguyễn Kim Đua, Đái Thị Xuân Trang

Study on tau-aggregation inhibitors in Alzheimer’s disease of methanol extracts of several medicinal plants collected in the Mekong Delta, Vietnam

Khảo sát khả năng kháng kết tập protein tau ở bệnh Alzheimer của cao chiết methanol thảo dược thu hái ở Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam

Tạp chí Phát triển Khoa học & Công nghệ

2017

2T

Protein tau ở tế bào thần kinh của người có vai trò cố định và ổn định cấu trúc của vi ống ở sợi trục, giúp đảm bảo sự dẫn truyền thần kinh giữa những neuron kề nhau được diễn ra xuyên suốt. Ở não của bệnh nhân Alzheimer, protein tau bị phosphoryl hóa quá mức và tách khỏi vi ống. Do đó, cấu trúc ở sợi trục của tế bào thần kinh bị phá vỡ là nguyên nhân làm sự dẫn truyền trên tế bào thần kinh bị gián đoạn. Ngoài ra, những protein tau ở dạng tự do sẽ kết tập với nhau tạo thành đám rối tơ ở tế bào thần kinh (neurofibrillary tangle). Những đám rối tơ này đồng thời gây độc cho những tế bào thần kinh khác trong não bộ. Cho đến nay thì y học vẫn chưa tìm ra được loại thuốc chữa trị hiệu quả căn bệnh Alzheimer và nhóm bệnh mất trí (dementia) ở người cao tuổi. Ở Việt Nam, người dân vẫn tin dùng một số loại thực vật để chữa trị những rối loạn của hệ thần kinh và tăng cường trí nhớ. Vì vậy, mục đích của nghiên cứu này là khảo sát khả năng kháng kết tập protein tau của lá ổi (Psidium guajava L.), lá sen (Nelumbo nucifera), rau muống đồng (Ipomoea aquatic), thân và lá màng màng tím (Cleome rutidosperma), lá sa kê (Artocarpus altilis), rau muống trồng (Ipomoea aquatic), rau má (Centella asiatica), thân và lá mắc cở (Mimosa pudica L.), gương Sen (Nelumbo nucifera). Chín loại thảo dược thuộc 7 loài thực vật được chiết xuất bằng dung môi methanol theo phương pháp ngâm dầm. Khả năng kháng kết tập protein tau của các cao chiết methanol được xác định bằng phương pháp đo mật độ huỳnh quang của phản ứng kết tập protein tau với phẩm nhuộm Thioflavin T. Kết quả cho thấy 9 mẫu cao chiết methanol đều có khả năng kháng đông protein tau ở cả 4 nồng độ 12,5 mg/mL; 1,25 mg/mL; 0,25 mg/mL và 0,125 mg/mL. Ở nồng độ 12,5 mg/mL, hiệu quả kháng kết tập của chín mẫu cao chiết dao động từ 65% đến 98%. Hiệu quả kháng kết tập của cao chiết lá ổi (Psidium guajava L.), lá sen (Nelumbo nucifera) và lá sa kê (Artocarpus altilis) là cao nhất với IC50 lần lượt là 0,39 mg/mL, 1,24 mg/mL và 1,05 mg/mL so với IC50 của đối chứng dương là 1.35 µM (blue methylene). Cao chiết lá ổi (Psidium guajava L.) được tách thành 5 phân đoạn bằng sắc ký cột silica gel (70-230 mesh). Tỉ lệ kháng kết tập protein tau của 5 phân đoạn dao động từ 33.7% đến 48.49%, ngoại trừ phân đoạn với 100% >

Tau protein and Aβ-amyloid have been studied as pathological aggregations, which form neurofibrillary tangles and amyloid plaques in Alzheimer’s disease brain. Tau protein plays a critical role in neuron that binds to microtubules and assists with their formation and stabilization. However, unbinding of hyperphosphorylated tau and microtubules leads to unstable and disintegrating state of neuron. The free tau proteins form neurofibrillary tangles. The purpose of this study is to screen in vitro the the tau-aggregation inhibitory activity of nine methanol extracts of Psidium guajava leaf, Nelumbo nucifera leaf; wild Ipomoea aquatic, Cleome rutidosperma aerial parts, Artocarpus altilis leaf, cultivated Ipomoea aquatic, Centella asiatica leaf, Mimosa pudica L. aerial parts, Nelumbo nucifera seed pod collected in the Mekong Delta. Nine herbs werecollected, dried and extracted with methanol. The half maximal inhibitory concentration (IC50) of methanol extracts was measured by Thioflavin T assay at various concentrations. Silica gel column chromatography was employed to fractionate the Psidium guajava leaf crude extract. Nine methanol extracts were proved to reduce the tau aggregation in vitro. Extracts from leaves of Psidium guajava, Artocarpus altilis and Nelumbo nucifera impressively inhibited the tau aggregation with IC50 at 0.39mg/mL, 1.05mg/mL and 1.24mg/mL, respectively. Methylene blue was used as a positive control, with IC50 at 1.35µM. The five examined fractions of guava leaf were proved to inhibit the tau aggregation ranging from 33.70% to 48.49%, except the 100% of hexane fraction showed almost no effect on the tau aggregation inhibitor.