Các nhiệm vụ khác
- Lập sơ đồ phát triển và phân bố lâm nghiệp công nghiệp rừng giai đoạn 1986-2000
- ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ phát triển chăn nuôi gia cầm bền vững tại huyện Kim Bôi tỉnh Hòa Bình
- Phân lập xác định cấu trúc và thử hoạt tính gây độc tế bào ung thư của các hợp chất tự nhiên từ cây Ngâu Biên Hòa (Aglaia hoaensis) và Nhãn mọi (Walsura cochinchinensis)
- Nghiên cứu hiệu quả kinh tế của việc triển khai áp dụng các kỹ thuật tiến bộ và các biện pháp kinh tế-xã hội nhằm phát triển sản xuất cây lương thực và cây thực phẩm ở nước ta
- Quản lý mức vốn khả dụng của các công ty chứng khoán hoạt động tại Việt Nam
- Phát triển khoa học và công nghệ tỉnh Hậu Giang đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa nhà nước thị trường và xã hội trong quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam
- Nghiên cứu đề xuất giải pháp sử dụng biện pháp phòng vệ thương mại để bảo vệ ngành sợi trong quá trình hội nhập quốc tế
- Nghiên cứu đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã tại tỉnh Hải Dương
- Nghiên cứu Thử nghiệm các giải pháp kỹ thuật chăn nuôi đà điểu trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
liên kết website
Lượt truy cập
- Kết quả thực hiện nhiệm vụ
958/GCN-KQNV
Nghiên cứu đặc điểm dịch tế gen bệnh thalassemia của người dân tộc Tày Nùng trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lạng Sơn
UBND Tỉnh Lạng Sơn
Tỉnh/ Thành phố
BSCKII. Phan Thanh Huy
BSCKII. Phan Thanh Huy, BSCKI. Phạm Thế Vinh, CN. Lục Thị Ngọc Hoài, BSCKII. Nguyễn Thế Toàn, GS. Nguyễn Anh Trí(1), ThS. Ngô Huy Minh, CN. Đỗ Khải Hoàn, BSCKI. Hoàng Mạnh Cương, CN. Nguyễn Hồng Đăng, BS. Nông Thị Nòm
Khoa học y, dược
01/12/2017
01/06/2019
2019
Lạng Sơn
68 tr
2. Đề xuất một số giải pháp khả thi phòng ngừa, hạn chế tác hại và phát tán bệnh Thal trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
- Tỷ lệ mang gen Thal chung của người dân tộc Tày, Nùng ở Lạng Sơn là 27,5%, cao hơn tỷ lệ mang gen chung của các dân tộc ít người sống chủ yếu ở Trung du và miền núi phía Bắc là 16,89%. Sự khác biệt về tỷ lệ mang gen bệnh giữa 2 dân tộc không có ý nghĩa thống kê. Trong khi đó căn bệnh này còn hầu như chưa được quan tâm tại Lạng Sơn.
- Thal là bệnh di truyền có phân bố khá đồng đều trong cộng đồng 2 dân tộc Tày, Nùng dù ở các địa bàn khác nhau. Giới tính không liên quan với tình trạng mang gen bệnh Thal. Do đó cần chú trọng quản lý, truyền thông trong toàn tỉnh và cả đối tượng nam vẫn hay bỏ quên trong các chương trình chăm sóc sức khỏe sinh sản.- Ở người dân tộc Tày và Nùng tại Lạng Sơn, kết quả nghiên cứu cho thấy ngoài sự tương đồng về các kiểu gen bệnh, tỷ lệ các thể gen bệnh cũng tương đồng với các dân tộc ít người Trung du và miền núi phía Bắc, Nam Trung Quốc và có sự khác biệt rõ rệt với các dân tộc ở miền Trung, Tây Nguyên và Nam Bộ.
Ở người Tày, Nùng của Lạng Sơn, tỷ lệ và các thể đột biến gen α và β Thal có sự tương đồng với đột biến của các dân tộc ít người ở Trung du, miền núi phía Bắc và khác biệt rõ rệt với Miền Trung – Tây Nguyên và Miền Nam. Các đột biến Thái và Fil không gặp ở dân tộc Nùng, dân tộc Tày có gặp đột biến Thái nhưng tỷ lệ rất thấp.
Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Lạng Sơn
LSN-2019-007
