Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  20,836,075
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

Cây công nghiệp và cây thuốc

Phan Thị Phương Thảo, Trần Thị Thu Hằng, Giang Trung Khoa, Hoàng Đình Hòa, Vũ Hồng Sơn, Trần Thị Thu Hà(1)

Ảnh hưởng của giống và vùng địa lý đến chất lượng hạt chè và dầu hạt chè Camellia sinensis O. Kuntze ở Việt Nam

Effect of variety and cultivation place on the quality of tea (Camellia sinensis O. Kuntze) seed and tea seed oil in Vietnam

Tạp chí khoa học & công nghệ Việt Nam

2020

05

32 - 37

1859 - 4794

Chất lượng hạt và dầu hạt của 4 giống chè phỗ biến tại Việt Nam là Trung du, Shan, PH1 và LDP1 được trông tại 7 tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Yên Bái, Nghệ An, Quảng Trị, Lào Cai) đã được xác định. Tỷ lệ hạt quà chè tươi dao động từ 52,66 đến 64,69% so với trọng lượng quả tươi, các thành phần hóa học trong hạt chè (hàm lượng protein, tro, lipid và polyphenol) ở các giống khác nhau có sự khác nhau, tuy nhiên ở các địa phương khác nhau trong cùng một giống thì chênh lệch không đáng kể. Nhìn chung, giống chè Shan trông ở các địa phương khác nhau đểu có hàm lượng lipid trong hạt cao 18452009 %) nhưng tỷ lệ hạt/quả thấp (chỉ đạt khoảng 52,77%). Ngược lại, giống Trung du ở các tỉnh phía Bắc có tỷ lệ thu hồi hạt cao (khoảng 64,6%) và tỷ lệ chất béo trong hạt cũng tốt (18-20%). Chất lượng dầu được xác định qua các chỉ tiêu hóa lý (trị số peroxit, axit, iod, xà phòng hoá); các chỉ tiêu đánh giá khả năng kháng oxy hoá polyphenol tổng số, khả năng bắt gốc tự do DPPH (thông qua chỉ số IC50), carotenoid tổng số của tất cả 15 mẫu, thành phần axit béo được đánh giá ở một số mẫu phù hợp làm nguyên liệu thu nhận dầu hạt chè. Về chất lượng dầu, giống chè không ảnh hưởng có ý nghĩa đến thành phần hoá học và thành phần axit béo của dầu hạt chè. Tuy nhiên, khả năng bắt gốc tự do DPPH, hàm lượng carotenoid cao nhất ở các mẫu dầu hạt chè giống Shan, Trung du trồng ở Phú Thọ. Kết quả phân tích thành phần axit béo từ 3 mẫu dầu hạt chè (2 mẫu Trung du trồng tại Phú Thọ, Tuyên Quang và 1 mẫu giống Shan tại Yên Bái) cho thấy dấu hạt chè có chất lượng cao.

The quality of tea seeds and tea seed oils from four popular tea varieties in Vietnam, namely Trungdu, Shan, PH1, and LDP1, grown in Phu Tho, Tuyen Quang, Thai Nguyen, Yen Bai, Nghe An, Quang Tri, and Lao Cai provinces has been identified. The recovery rate of fresh tea seeds ranged from 52.66-64.69%. Chemical components in tea seeds such as protein, ash, lipid and polyphenol content varied in different varieties, but the results of different cultivation places showed no significant difference. In general, the Shan variety had a high content of lipid in seeds (18.45-20.09%), but the recovery rate of seeds was low (about 52.77%). In contrast, the Trungdu variety had a high seed recovery rate (about 64.6%), and the lipid content in the seed was also good (18-20%). Oil quality was determined by physical and chemical indicators (peroxide value, acid value, iodine value, saponification value); Criteria for evaluation of antioxidant capacity (total polyphenols, DPPH free radical scavenging ability through IC50, total carotenoids) of all 15 samples and fatty acid composition in some samples were evaluated as raw materials for producing tea seed oils. In term of oil quality, the tea varieties did not significantly affect the chemical quality and fatty acid composition of tea seed oils. However, DPPH free radical scavenging ability and carotenoid content were the best in Shan seed oil samples in all cultivation places and Trung Du seed oil samples in Phu Tho. Fatty acid profiles of 3 oil samples (2 samples of Trung du seed oil in Phu Tho and Tuyen Quang provinces; 1 samples of Shan seed oil in Yen Bai province) showed that tea seed oil had a high quality.

TTKHCNQG, CVv 8