Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  23,153,433
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

Nuôi trồng thuỷ sản

Nguyễn Tấn Sỹ, Ngô Văn Mạnh(1), Lục Minh Diệp, Phan Văn Út, Vũ Trọng Đại

Thử nghiệm ương giống cá bớp (Rachycentron canadum Linnaeus, 1766) trong bể và ao tại Kiên Lương - Kiên Giang

LARVAL REARING OF COBIA (Rachycentron canadum Linnaeus, 1766) IN CEMENT TANKS AND CANVAS PONDS IN KIEN LUONG - KIEN GIANG

Khoa học và Công nghệ Thủy sản

2021

2

75-81

1859-2252

Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá khả năng ương cá bớp, giai đoạn cá bột lên cá giống tại Kiên Giang nhằm chủ động con giống sản xuất tại chỗ. Ở giai đoạn cá bột lên cá hương (5 - 6 cm), cá được ương theo hai hình thức trong bể xi măng (8 m3 ) và ao lót bạt (500 m2 ). Cá mới nở được ương với mật độ tương ứng ở 2 hình thức là 20 con/L và 300 - 500 con/m2 . Ở giai đoạn cá hương lên cá giống, cá được ương trong bể xi măng (8 m3 ), mật độ ương 0,5 - 0,8 con/L. Thời gian ương tương ứng với 2 giai đoạn lần lượt là 35 và 30 ngày. Kết quả nghiên cứu cho thấy cá bớp giai đoạn bột lên hương, thích ứng tốt với cả 2 hình thức ương trong bể xi măng và ao lót bạt. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của cá ương trong ao cao hơn so với ương trong bể (0,24 so với 0,20 cm/ngày). Trong khi đó, tỷ lệ sống của cá ương trong bể lại cao hơn so với trong ao lót bạt (19,3 so với 14,5%). Giai đoạn cá hương lên cá giống, cá thích ứng rất tốt với điều kiện ương. Cá đạt cỡ trung bình 11,5 cm sau 28 - 30 ngày ương, tỷ lệ sống đạt 87,3%. Nghiên cứu cho thấy tiềm năng khả thi của việc ương cá bớp trong bể và ao lót bạt tại Kiên Giang qua đó giúp chủ động nguồn con giống tại chỗ góp phần nâng cao hiệu quả, tính bền vững của nghề nuôi cá bớp tại Kiên Giang.

This study was carried out to evaluate the ability of rearing cobia, from fry to juvenile stages in Kien Giang in order to proactively supply high - quality seeds in the local regions. At the stage of fry to fi ngerling (5 - 6 cm), the fi sh were nursed in two forms of cement tanks (8 m3 ) and canvas ponds (500 m2 ). Newly hatched larvae of cobia were stocked at densities of 20 individuas/L and 300 - 500 individuals/m2 , respectively. In the stage of fi ngerling to juvenile, the fi sh were reared in cement tanks (8 m3 ) with the stocking density of 0.5 - 0.8 individual/L. Rearing duration corresponding to the 2 stages was 35 and 30 days, respectively. Results showed that cobia grew and developed well in both forms of rearing models, cement tanks and canvas ponds. However, growth rate of fi sh reared in ponds was higher than that in cement tanks (0.24 compared to 0.20 cm/day). Meanwhile, survival rate of fi sh reared in tanks was higher than that in canvas ponds (19.3 as opposed to 14.5%). In the stage of fi ngerling to juvenile, cobia were well adapted to rearing conditions in cement tanks. The average size of fi sh was 11.5 cm after 28 - 30 days, with the survival rate of 87.3%. This study shows the feasibility of rearing cobia in cement tanks and canvas ponds in Kien Giang, thereby helping to actively sources of high - quality cobia seed on site, contributing to improving the effi ciency and sustainability of cobia farming in Kien Giang.

TTKHCNQG, CTv 171