Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  22,440,727
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

Nuôi trồng thuỷ sản

Trần Ngọc Hải, Nguyễn Văn Hòa, Trần Nguyễn Duy Khoa(1), Trần Thị Thanh Hiền, Châu Tài Tảo

Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) giống ương bằng công nghệ biofloc

Effects of different dietary protein contents on growth performance and survival rate of freshwater prawn postlarvae (Macrobrachium rosenbergii) reared in biofloc system

Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam

2021

10

124 - 129

1859 - 1558

Nghiên cứu nhằm xác định thức ăn có hàm lượng protein thích hợp lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của ương giống tôm càng xanh bằng công nghệ biofloc. Thí nghiệm gồm 4 nghiệm thức thức ăn có hàm lượng protein khác nhau là 25%, 30%, 35% và 40%. Mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần, mật độ 1.000 con/m3 , bể ương tôm có thể tích 0,5 m3 , độ mặn 5‰. Sau 30 ngày ương khối lượng của tôm (0,30 ± 0,02 g/con) ở nghiệm thức thức ăn có hàm lượng 40% protein cao nhất khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) so với nghiệm thức 35% protein, nhưng khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với 2 nghiệm thức còn lại. Tỷ lệ sống (87,6%) và năng suất (876 con/m3) của tôm ở nghiệm thức 40% protein khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Từ đó cho thấy trong nghiên cứu này ương giống tôm càng xanh theo công nghệ biofloc với thức ăn có 40% protein là tốt nhất.

The study aimed to determine the appropriate dietary protein content for the growth and survival rate of freshwater prawn postlarvae reared in biofloc system. The experiment consisted of four treatments with different dietary protein contents (25%, 30%, 35%, and 40%) in triplicate. Each treatment was conducted in 0.5 m3 tanks at 5‰ of salinity and 1,000 postlarvae/m3 of stocking density. After 30 days of rearing, the highest prawn weight (0.30 ± 0.02 g/prawn) was observed in 40% protein treatment which was not significantly different compared to 35% protein (p > 0.05), but significantly higher than other treatments (p < 0.05). The prawn survival (87.6 %) and biomass (876 prawn/m3 ) in 40% protein treatment were statistically greater than other treatments. The results suggested that rearing freshwater prawn postlarvae in biofloc system with 40% of dietary protein was the most suitable.

TTKHCNQG, CVv 490

  • [1] Nguyen Van Hoa; Chau Tai Tao; Takeshi Terahara; Tran Ngoc Hai (2021), Influence of salinity on nursery- phase whiteleg shrimp (Litopenaeus vannamei) reared in a biofloc system.,Journal of Applied Aquaculture: 15 pp. https://doi.org/10.1080/10454438.2021.1909519.
  • [2] McIntosh; B.J.; Samocha; T.M.; Jones; E.R.; Lawrence; A.L.; McKee; D.A.; Horowitz; S.; Horowitz; A. (2000), The effect of a bacterial supplement on the high-density culturing of Litopenaeus vannamei with low-protein diet on outdoor tank system and no water exchange.,Aquacultural Engineering, 21: 215-227.
  • [3] Huys; G. (2002), Preservation of bacteria using commercial cry preservation systems.,
  • [4] Chanratchakool; P. (2003), Advice on aquatic animal health care: Problems in Penaeus monodon culture in low salinity areas.,Aquaculture Asia, 8 (1): 54-56
  • [5] Avnimelech; Y. (2015), Biofloc Technology - A Practical Guide Book.,
  • [6] (2005), American Water Works Association, Water Pollution Control Association.,Standard Methods for the Examination of Water and Wastewater, 21st edition.
  • [7] Châu Tài Tảo; Trần Ngọc Hải; Phạm Chí Nguyện (2016), Ảnh hưởng của mật độ lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của ương giống tôm cành xanh (Macrobrachium rosenbergii) theo công nghệ biofloc.,Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam, (9): 59-63.
  • [8] Châu Tài Tảo; Hồ Ngọc Ngà; Trần Ngọc Hải (2015), Ảnh hưởng của mật độ lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) ương giống theo công nghệ biofloc.,Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ, (37b): 65-71.
  • [9] Châu Tài Tảo; Trần Minh Phú (2015), Ảnh hưởng của độ kiềm lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng và hậu ấu trùng tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii).,Tạp chí khoa học, Trường Đại học Cần Thơ, (3+4): 192-197.
  • [10] Phạm Thị Tuyết Ngân; Trần Thị Kiều Trang; Trương Quốc Phú (2008), Biến động mật độ vi khuẩn trong ao nuôi tôm sú (Penaeus monodon) ghép với cá rô phi đỏ ở Sóc Trăng.,Tạp chí Khoa học, Đại học Cần Thơ, số chuyên đề Thủy sản quyển 1: 187-194.
  • [11] Nguyễn Thanh Phương; Trần Ngọc Hải; Trần Thị Thanh Hiền; Marcy N.Wilder (2003), Nguyên lý và kỹ thuật sản xuất giống tôm càng xanh.,
  • [12] Dương Thiên Kiều; Trần Ngọc Hải; Châu Tài Tảo; Phạm Văn Đầy (2018), Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) giống ương theo công nghệ biofloc.,Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ, 54 (Số chuyên đề: Thủy sản) 1: 35-44.
  • [13] Dương Thiên Kiều; Trần Ngọc Hải; Cao Mỹ Án; Châu Tài Tảo (2017), Ảnh hưởng của độ mặn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của ương giống tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) theo hệ thống có và không có biofloc.,Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam, 85 (12): 116-120.
  • [14] Trần Thị Tuyết Hoa; Nguyễn Thị Thu Hằng; Đặng Thị Hoàng Oanh; Nguyễn Thanh Phương (2004), Thành phần loài và khả năng gây bệnh của nhóm vi khuẩn Vibrio phân lập từ hệ thống ương tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii DeMan, 1879).,Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, chuyên ngành thủy sản:153-165.
  • [15] Trần Ngọc Hải; Châu Tài Tảo; Nguyễn Thanh Phương (2017), Giáo trình kỹ thuật sản xuất giống và nuôi giáp xác.,