Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  20,018,181
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

68

Di truyền và nhân giống động vật nuôi

Trịnh Quang Tuyên, Phạm Duy Phẩm, Trịnh Hồng Sơn(1), Nguyễn Long Gia, Nguyễn Ngọc Minh, Bùi Thị Tư, Nguyễn Thị Lan, Lý Thị Thanh Hiên, Nguyễn Văn Huy, Hoàng Đức Long, Nguyễn Tiến Thông

Năng suất sinh sản của lợn nái TH12 và TH21 chuyển giao vào sản xuất

Reproductive performance of TH12 and TH21 sows transfer into productions

Khoa học công nghệ Chăn nuôi

2022

136

20-30

1859-0802

Nghiên cứu được tiến hành ở các mô hình tại Bắc Giang, Ninh Bình và Hải Dương từ năm 2021 đến năm 2022 nhằm đánh giá năng suất sinh sản của 100 lợn nái TH12 và 100 lợn nái TH21 khi phối với lợn đực ĐC1. Kết quả cho thấy, lợn nái TH12 và TH21 đều có năng suất sinh sản cao, với số con sơ sinh sống/ổ lần lượt là 12,96 và 13,68 con, số con cai sữa/ổ lần lượt là 11,95 và 12,52 con (P0,05) với số con sơ sinh sống/ổ lần lượt là 12,93; 12,95; 13,01 con và số con cai sữa/ổ lần lượt là 11,92; 11,93; 12,02 con. Lợn nái TH21 ở các mô hình tại Bắc Giang, Ninh Bình, Hải Dương cũng có năng suất sinh sản tương đương nhau (P>0,05) với số con sơ sinh sống/ổ lần lượt là 13,61; 13,69; 13,76 convà số con cai sữa/ổ lần lượt là 12,41; 12,52; 12,64 con. Yếu tố giống ảnh hưởng rất rõ rệt đến năng suất sinh sản lợn nái TH12, TH21 ở các chỉ tiêu như tuổi phối giống lần đầu, tuổi đẻ lứa đầu, số con sơ sinh sống/ổ, khối lượng sơ sinh sống/ổ, số con cai sữa/ổ, khối lượng cai sữa/ổ (P0,05). Yếu tố cơ sở chăn nuôi và tương tác giữa giống với cơ sở chăn nuôi không ảnh hưởng đến các chỉ tiêu năng suất sinh sản nghiên cứu (P>0,05). Từ các kết quả trên đề nghị sử dụng lợn nái TH12 và TH21 làm nái sinh sản trong chăn nuôi lợn tại các tỉnh phía Bắc.

The study was conducted in the model farm in Bac Giang, Ninh Binh and Hai Duong provinces from 2021 to 2022 to evaluate the reproductive performance of 100 TH12 and 100 TH21 sows when mated with ĐC1 boars. The results showed that both TH12 and TH21 sows had good reproductive performance, the total number of piglets born alive (NBA) (12.96 vs. 13.68 piglets/litter, respectively, P 0.05). TH21 sows NWL in farming models in Bac Giang, Ninh Binh and Hai Duong were not significant differences in terms of NBA and NWL, at 12.93, 12.95; 13.01 and at 11.92, 11.93, 12.02, respectively, (P > 0.05). Breeding factors did affect reproductive performance of TH12 and TH21 sows in some criteria, including age at first mating, age at first farrowing, NBA, NWL and weaning weight/litter (P0.05). The model farm sites and interaction between the breeding factors and the farming sites did not influence the reproductive performance criteria (P>0.05).Suggestions: using TH12 and TH21 sows as breeding sows in pig production in the Northern provinces.

TTKHCNQG, CVv 25