Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  26,799,688
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

Nuôi trồng thuỷ sản

Huỳnh Thanh Tới(1), Nguyễn Thị Hồng Vân

Ảnh hưởng sốc độ mặn trong giai đoạn thả giống lên sinh trưởng của tôm sú (Penaeus monodon) ương theo công nghệ Biofloc

Effect of Salinity Stress Shock on Growth and Survival of Black Tiger Shrimp (Penaeus monodon) at the Nursery Stage in the Biofloc Technology System

Khoa học nông nghiệp Việt Nam

2018

02

132-140

2588-1299

Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của việc thay đổi độ mặn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm sú (Penaeus monodon) giai đoạn giống. Thí nghiệm được thực hiện với 7 nghiệm thức 5 nghiệm thức cho thí nghiệm sốc độ mặn, tôm từ độ mặn 20‰ thả ương trực tiếp ở độ mặn 5‰, 10‰, 15‰, 20‰ (đối chứng), 30‰ và 2 nghiệm thức cho nghiệm thức tôm được thuần hóa, tôm ở 20‰ được tiến hành thuần nhanh trong 3 giờ và thuần chậm trong 3 ngày xuống 5‰ và thả vào ương ở độ mặn 5‰, mật độ ương là 2 con/L. Kết quả sau 20 ngày ương cho thấy các yếu tố môi trường nằm trong khoảng thích hợp cho phát triển của tôm. Sự thay đổi độ mặn đột ngột trong quá trình thả giống không ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng của tôm, nhưng đã ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của tôm. Tỷ lệ sống đạt cao nhất (98,3%) khi thả nuôi không bị sốc độ mặn ở lô đối chứng (20‰) và thấp nhất là 67,0% ở lô sốc độ mặn 20‰ xuống 10‰ và 60,7% khi thả nuôi từ độ mặn 20‰ xuống 5‰. Kết quả cho thấy tỷ lệ sống của tôm sú bị ảnh hưởng khá lớn khi tôm bị sốc độ mặn ở ngưỡng cao (giảm độ mặn xuống đột ngột từ 10 đến 15‰), nhưng khi tăng độ mặn từ 20 - 30‰ thì không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của tôm sú. Tôm giống được thuần nhanh và thuần chậm không ảnh hưởng đến tăng tưởng và tỷ lệ sống của tôm nuôi.

This study was conducted to evaluate the effect of salinity stress shock on the growth and survival of postlarval black tiger shrimps (Penaeus monodon). The experiment consisted of 7 treatments. In five treatments for salinity stress, the shrimps taken f-rom 20‰ salinity condition were abruptly transferred to 5‰, 10‰, 15‰, 20‰, and 30‰ salinity environment. In other two treatments the shrimps reared at 20‰ salinity were acclimated for short time (in 3 hours) and long time (in 3 days) to 5‰ salinity by adding tap water at stocking density of 2 shrimps/L . After 20 days of nursing, the water condition was in a suitable range for shrimp growth. The growth of shrimp in terms of individual length and weight by sudden salinity changes was not significantly different compared to the control, but the survival was significantly lower. The highest survival rate (98,3%) was observed in the control (20‰) and the lowest survival (60,7%) was found in the salinity shock f-rom 20‰ to 5‰. The results indicated that the survival of shrimps was adversely affected when salinity was suddenly shocked at high threshold by 10 - 15‰ while the increase in salinity f-rom 20‰ to 30‰ did not affect shrimp survival. Both short time and long time acclimation did not affect the shrimp survival and growth.

TTKHCNQG, CTv 169

  • [1] Hari, B., B. Madhusoodana Kurup, J. T. Varghese, J. W. Schrama and M. C. J. Verdegem (2006), The effect of carbohydrate addition on water quality and the nitrogen budget in extensive shrimp culture systems,Aquaculture, 252(2-4): 248-263
  • [2] Hà Kiều (2017), https://tongcucthuysan.gov. vn/vi-vn/tin-t%E1%BB%A9c/-ngh%E1%BB%81- c%C3%A1-trong-n%C6%B0%E1%BB%9Bc/doctin/008317/2017-07-03/tong-san-luong-thuy-san-6- thang-dau-nam-dat-3328-trieu-tan-tang-42-socung-ky,
  • [3] Chen, J, C and T, S, Chin (1998), Accute oxicty of nitrite to tiger prawn,Penaeus monodon, larvae, Aquaculture, 69: 253-262.
  • [4] Chen, H.C (1985), Water quality criteria for farming the grass shrimp, Penaeus monodon. First international conference on the culture of penaeid prawns/shrimps,Aquaculture department. SEAFDEC, p. 165.
  • [5] Châu Tài Tảo, Trần Ngọc Hải, Lý Minh Trung (2015), Nghiên cứu ương giống tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) theo công nghệ biofloc ở các mức nước khác nhau,Tạp chí Khoa học, Trường đại học Cần Thơ, 39: 92-98.
  • [6] Châu Tài Tảo, Lý Văn Khánh và Trần Ngọc Hải (2017), Ảnh hưởng của tỷ lệ C/N lên tăng trưởng, tỷ lệ sống ấu trùng và hậu ấu trùng tôm sú (Penaeus monodon) ương nuôi trong hệ thống biofloc,Tạp chí Khoa học, Trường đại học Cần Thơ, 49b: 64-71.
  • [7] Chanratchakool, P., Turnbull, J. F., Funge-Smith, S. & Limsuwan, C (1995), Health management in shrimp ponds (2nd ed.),Aquatic Animal Health Research Institute, Bangkok.
  • [8] Chanratchakool, P (2003), Problems in Penaeus monodon culture in low salinity areas,Aquaculture Centres in Asia-Pacific, 8(1): 55-56
  • [9] Boyd, C.E. and Tucker, C.S (1998), Pond Aquaculture Water Quality Mannagement,Kluwer Academic Publishing, Boston, MA, USA.
  • [10] Bindu, R.P. and Diwan, A.D (2002), Effects of acute salinity stress on oxygen consumption and ammonia excretion rates of the marine shrimp Metapenaeus monoceros,J. Crustcean Biol., 22(1): 45-52.
  • [11] Avnimelech Y (1999), Carbon/nitrogen ratioas a control element in aquaculture systems,Aquaculture, 176: 227-235.