Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  20,955,937
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

Các khoa học môi trường

Trần Đức Tuấn, Nguyễn Thị Hồng Hạnh(1), Lê Đắc Trường

Nghiên cứu trữ lượng các bon tích lũy của rừng ngập mặn trồng ven biển huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình

Study on các bon stocks in mangroves planted along the coastal of Kimson district, Ninh Binh province

Môi trường

2022

CD1

29-33

2615-9597

Nghiên cứu trữ lượng các bon của rừng ngập mặn (RNM) ven biển huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình được thực hiện vào năm 2020, 2021, thông qua 3 bể chứa các bon (bể chứa các bon trong sinh khối thực vật ở trên mặt đất, bể chứa các bon trong sinh khối thực vật ở dưới mặt đất và bể chứa các bon trong đất). Kết quả nghiên cứu cho thấy, trữ lượng các bon tích lũy trong đất rừng cao hơn trữ lượng các bon trong sinh khối cây trên mặt đất và dưới mặt đất (rễ) của rừng. Khả năng tích lũy các bon hàng năm của rừng tương ứng với lượng CO2 “tín dụng” (credit) tăng theo thời gian. Đối với rừng trồng thuần loài trang, hiệu quả tích lũy đạt giá trị cao nhất trong nghiên cứu là R12T với 15,38 tấn/ha/năm, tiếp theo là R11T với 14,59 tấn/ha/năm và R10T với 14,80 tấn/ha/năm. Đối với rừng bần chua, hiệu quả tích lũy đạt giá trị cao nhất trong nghiên cứu là R11T với 51,56 tấn/ha/năm, tiếp theo là R12T với 30,00 tấn/ha/năm và R10T với 28,87 tấn/ha/năm. Với khả năng tích lũy các bon cao trong cây và đặc biệt là trong đất rừng, là cơ sở khoa học để xây dựng và thực hiện các Chương trình REDD (Giảm phát thải khí nhà kính (KNK)từ mất rừng và suy thoái rừng) và REDD+ (Giai đoạn sau của REDD, Giảm phát thải KNK thông qua nỗ lực hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, quản lý bền vững tài nguyên rừng, bảo tồn và nâng cao trữ lượng các bon rừng) tại các vùng ven biển Việt Nam.

The study on các bon stocks in mangroves planted along the coast of Kim Son district, Ninh Binh province is carried out in 2020, 2021, through 3 các bon sink (các bon sink in aboveground plant biomass, các bon in subterranean plant biomass and soil các bon sink). Research results show that the các bon stock accumulated in forest soil is higher than the các bon stock in the aboveground and below ground (root) tree biomass of the forest. The annual capacity of forests to accumulate các bon corresponds to an increase in CO2 “credits” over time. For Kandelia obovata forest, the highest cumulative efficiency in this study was R12T with 15.38 tons/ha/year, followed by R11T with 14.59 tons/ha/year and R10T with 14.80 tons/ha/year. For Sonneratia caseolaris forest, the highest cumulative efficiency in this study was R11T with 51.56 tons/ha/year, followed by R12T with 30.00 tons/ha/year and R10T with 28.87 tons/ha/year. With the high ability to accumulate các bon in trees and especially in forest land, it is a scientific basis for building and implementing greenhouse gas reduction programs such as REDD, REDD+ in coastal areas of Vietnam.

TTKHCNQG, CVv 359