Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  23,153,433
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

Nuôi trồng thuỷ sản

Nguyễn Tấn Sỹ, Ngô Văn Mạnh(1), Lục Minh Diệp, Phan Văn Út, Vũ Trọng Đại

Hiện trạng nghề nuôi cá bớp (Rachycentron canadum Linnaeus, 1766) thương phẩm tại Kiên Giang

STATUS OF COBIA (Rachycentron canadum Linnaeus, 1766) GROW - OUT FARMING IN KIEN GIANG PROVINCE

Khoa học và Công nghệ Thủy sản

2021

2

26-33

1859-2252

Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá hiện trạng nghề nuôi cá bớp thương phẩm tại tỉnh Kiên Giang làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp phát triển hiệu quả, bền vững. Nghiên cứu được thực hiện trên 90/639 hộ nuôi bớp được thu ngẫu nhiên tại 3 huyện Kiên Hải, Kiên Lương và Phú Quốc. Kết quả cho thấy Kiên Giang có tiềm năng lớn để phát triển nghề nuôi cá bớp lồng bè. Cá được nuôi trong hệ thống lồng nổi, thể tích từ 52 - 64 m3 /lồng. Đa số người nuôi sử dụng con giống nhân tạo (60 - 70%), mật độ thả nuôi 5 - 40 con/m3 tùy giai đoạn. Cá được cho ăn hầu hết là cá tạp (92 - 94%) với khẩu phần 3 - 12%BW (khối lượng thân). Hệ số FCR từ 8,0 - 9,8. Sau 12 - 16 tháng, cá đạt cỡ 4,5 - 7,5 kg/con, tỷ lệ sống 65 - 75%. Việc quản lý môi trường và phòng trị bệnh vẫn chưa được chú trọng do nhiều nguyên nhân. Cá được tiêu thụ chủ yếu tại địa phương và một phần tại các thành phố lân cận. Nghiên cứu đã tiến hành phân tích SWOT về hiện trạng nghề nuôi cá bớp và đề xuất 5 nhóm giải pháp liên quan đến khoa học công nghệ, thị trường, quy hoạch/chính sách, quản lý môi trường và bệnh, và đào tạo khuyến ngư nhằm phát triển bền vững nghề nuôi cá bớp tại Kiên Giang

This survey was conducted in order to evaluate the current status of cobia grow-out farming industry in Kien Giang province as a basis for proposing eff ective and sustainable development solutions. The investigation was carried out in 90/639 farming owners that were randomized in 3 districts of Kien Hai, Kien Luong and Phu Quoc. Results showed that Kien Giang has great potential to develop marine fi nfi sh cage farming. Fish were cultured in fl oating cages, with a volume of 52 - 64 m3 /cage. The majority of farmers used hatchery seeds (60 - 70%), and stocking densities were 5 - 40 individuals/m3 depending on each stage. The fi sh were mostly fed by trash fi sh (92 - 94%) at 3 - 12%BW. FCR was from 8.0 - 9.8. After 12 - 16 months, fi sh reached the market weight of 4.5 - 7.5 kg/individual, and survival rate was 65 - 75%. Environmental management and disease prevention and treatment have not been focused on due to several causes. Fish has been mainly consumed locally and partly in neighboring cities. The SWOT analysis was used to evaluate the current status of cobia farming and 5 groups of solutions related to science and technology, marketing development, planning/policy, environmental and disease management, and extension training were proposed to sustainably develop cobia grow-out farming industry in Kien Giang province.

TTKHCNQG, CTv 171