Khảo sát các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của VNTM và đặc điểm VNTM tự kháng thể kháng thụ thể NMDA (NMDAR) ở trẻ em. Phương pháp: Mô tả hàng loạt bệnh nhi được chẩn đoán VNTM lần đầu tại Bệnh viện Nhi Đồng 2 trong thời gian từ ngày 10/2020 đến ngày 8/2021 về các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị. So sánh các đặc điểm này giữa hai nhóm VMTM có tự kháng thể kháng thụ NMDAR âm tính và dương tính. Kết quả: Nghiên cứu thu được 30 bệnh nhi VNTM, 60% là nữ. Tuổi trung vị là 7,58, tuổi gặp nhiều nhất là từ 6-10 tuổi. Trung vị thời gian khởi phát đến nhập viện là 7 ngày. 50% có sốt trước khởi phát bệnh. 50% thay đổi nhận thức nhẹ. 86,7% có rối loạn giấc ngủ. Rối loạn hành vi, rối loạn khả năng nói/câm lặng, giảm chú ý, co giật có tần xuất > 70%. 73,3% trường hợp có tăng bạch cầu > 5 tế bào/mm3 trong dịch não tủy; protein và đường trong giới hạn bình thường. 27% có bất thường trên MRI sọ não. 97% có bất thường trên EEG. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về lâm sàng và cận lâm sàng giữa hai nhóm viêm não tự miễn có kháng thể kháng NMDAR dương tính và âm tính. Kết luận: VNTM ở trẻ em biểu hiện chủ yếu là rối loạn giấc ngủ, thay đổi hành vi, ngôn ngữ và co giật. Tần suất các triệu chứng tương đồng giữa nhóm VNTM tự kháng thể kháng NMDAR dương và âm tính.