Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  22,496,791
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

Huyết học và truyền máu

Bạch Quốc Khánh, Vũ Hải Toàn, Nguyễn Thị Thu Hà(1), Dương Quốc Chính, Lê Xuân Hải, Nguyễn Thị Thu Hà(1), Nguyễn Anh Trí

Đặc điểm mang gen bệnh thalassemia và huyết sắc tố của 3 dân tộc Chơ Ro, Khmer và Stiêng ở miền nam Việt Nam

Tạp chí Y học Việt Nam (Tổng hội Y học Việt Nam)

2021

Chuyên đề

88-95

1859-1868

Xác định đặc điểm mang gen bệnh Thalassemia và HST của ba dân tộc Chơ Ro, Khmer; Stiêng. Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: Tỷ lệ mang gen của cả 3 dân tộc đều cao, cụ thể dân tộc Stiêng là 78%, Chơ Ro 73,6% và Khơ Me là 43,8%. Tỷ lệ mang gen α-thal của dân tộc Chơ Ro, Stiêng và Khmer lần lượt là 62,5%, 59,8% và 20%. Tỷ lệ các kiểu đột biến α-globin của dân tộc Chơ Ro là 3.7 (82,1%), HbCs (14,2%), SEA (3,2%), 4.2 (0,5%). Tỷ lệ các kiểu đột biến α-globin của dân tộc Stiêng là 3.7 (82,7%), SEA (13,5%), HbCs (3,8%). Tỷ lệ các kiểu đột biến α-globin của dân tộc Khmer là 3.7 (57%), HbCs (22,8%), 4.2 (10,1%), SEA (8,9%), C2delT (1,3%). Tỷ lệ mang gen HbE của dân tộc Chơ Ro, Stiêng và Khmer lần lượt là 38%, 54,9% và 29,7%. Cả 3 dân tộc đều không phát hiện đột biến β-Thal. Kết luận: Cả 3 dân tộc ở Nam bộ đều có tỷ lệ mang gen bệnh Thal/HST khá cao (43,8% đến 78%). Chỉ mang gen α-thal (45,7%) và HbE (36,7%). Không thấy trường hợp nào mang gen β-thal.

TTKHCNQG, CVv 46

  • [1] Wambua S, Mwangi TW, Kortok M, Uyoga SM, Mac-haria AW, Mwac-haro JK, Weatherall DJ, Snow RW, Marsh K, Williams TN (2006), The effect of α+-thalassaemia on the incidence of malaria and other diseases in children living on the coast of Kenya.,PLoS Med. 2006;3:158
  • [2] PGS.TS.Hồ Văn Hoàng (), ết quả Phân vùng dịch tễ sốt rét tại Việt Nam năm 2019,Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
  • [3] GS, TS Nguyễn Đình Tấn (), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, “Biến đổi quy mô và cơ cấu di dân của đồng bào các dân tộc thiểu số từ Đổi mới đến nay,Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 6-2020
  • [4] Cornelis L., Harteveld Joanne, et al. John Old (2012), Prevention of thalassemia and other haemoglobin disorders,Thalassemia International Ferderation, 2nd edition
  • [5] Sayphonh Phanmany et al (2019), Molecular prevalence of thalassemia and hemoglobinopathies among the Lao Loum Group in the Lao People’s Democratic Republic,Int J Lab Hematol, pp. 1-7
  • [6] Pornnapa Khumpun, Pranee Winichagoon, Suthat Fuc-haroen and Kittiphong Paiboonsukwong Jitsuda Buakhao (2017), Prevalence and c-haracterization of thalassemia among migrant workers f-rom cambodia, lao pdr and myanmar in thailand,SoutheaSt aSian J trop Med public health, vol. 48, pp. 864-874
  • [7] Munkongdee T et al (2016), Molecular Epidemiology of Hemoglobinpathies in Cambodia,Hemoglobin , vol. 40, no. 3, pp. 163-167
  • [8] Lê Thị Hoàng Mỹ (2018), Nghiên cứu tần suất, đặc điểm thalassemia và các bệnh hemoglobin trong cộng đồng dân tộc người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long. Luận án Tiến sĩ.,Luận án tiến sĩ
  • [9] Nguyễn Thị Thu Hà (2019), Khảo sát tình hình mang gen Thalassemia và bệnh huyết sắc tố ở một số dân tộc ít người ở miền núi phía Bắc Việt Nam,Y học Việt Nam, vol. 477, pp. 241-250
  • [10] (2019), Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2019,
  • [11] S. O'Riordan et al (2010), Large scale screening for haemoglobin disorders in southern Vietnam: implications for avoidance and management,Br J Haematol, vol. 150, no. 3, pp. 359-364
  • [12] (), Thalassemia Internation Federation annual report 2013,
  • [13] Matthew Darlisona Bernadette Modella (2008), Global epidemiology of haemoglobin disorders and derived service indicators,Bulletin of the World Health Organization , no. 8, pp. 480-487