Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  24,665,852
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

Nuôi dưỡng động vật nuôi

Hoàng Tuấn Thành(1), Nguyễn Thị Hiệp, Nguyễn Thị Lan Anh, Nguyễn Thị Thủy Tiên

Ảnh hưởng của phương thức nuôi đến khả năng sinh trưởng và sinh sản của vịt hòa lan

Effect of farming methods on growth and reproduction performances of Hoa Lan duck breed

Khoa học kỹ thuật chăn nuôi

2021

263

35-41

2615-9902

Nghiên cứu ảnh hưởng của phương thức nuôi đến khả năng sinh trưởng và sinh sản của vịt Hòa Lan đã được khảo sát đánh giá trong 2 năm 2018-2019 trong điều kiện chăn nuôi nông hộ tại Tiền Giang. Kết quả cho thấy phương thức nuôi nhốt có tỷ lệ nuôi sống của vịt trống (95,6%) vàvịt mái (97,1%), cao hơn so phương thức nuôi chăn thả có kiểm soát, mặc dù sự chênh lệch là chưa đáng kể. Khối lượng cơ thể ở 12 và 20 tuần tuổi tương ứng ở vịt trống, vịt mái lần lượt là 1.517,7; 1.450,8; 1.717,2 và 1.613,5 g/con đối với nuôi nhốt, cao hơn so với nuôi bán chăn thả, đạt tương ứng 1.432,7; 1.392,7; 1.641,0 và 1.560,5 g/con (p<0,05). Trong khi khối lượng cơ thể cao hơn, lượng thức ăn tiêu thụ ở cả vịt trống và vịt mái khi nuôi nhốt giai đoạn 9-20 tuần tuổi lại thấp hơn đáng kể so với phương thức còn lại. Xét yếu tố sinh sản, tỷ lệ đẻ trung bình/52 tuần đẻ đạt 59,77% tương ứng với năng suất trứng 218,36 quả/mái, cao hơn so với nuôi chăn thả có kiểm soát chỉ đạt 56,83% và 207,85 quả/mái (P<0,05). Tiêu tốn thức ăn/10 quả trứng trong nuôi nhốt là 3,36kg thấp hơn so với nuôi chăn thả có kiểm soát (P<0,05). Các chỉ tiêu khác bao gồm khối lượng trứng, tỷ lệ trứng có phôi, tỷ lệ ấp nở/trứng có phôi và tỷ lệ ấp nở/trứng ấp đạt tương ứng 73,3g; 94,5%; 84,8% và 80,1% đều cao hơn so với nuôi chăn thả có kiểm soát với mức tương ứng là 72,7g; 94,6%; 85,1% và 80,4% nhưng không có ý nghĩa về mặt thống kê. So sánh về hiệu quả kinh tế, phương thức nuôi nhốt sẽ cho mức lợi nhuận cao hơn nuôi chăn thả có kiểm soát là 14,1%.

The study was conducted to evaluate the effect of farming methods on growth and reproduction performances of Hoa Lan duck breed. The research was surveyed and evaluated for 2 years from 2018-2019 in the farming conditions of farmers in Tien Giang province. The results showed that ducks were raised under the confined raising method had the survival rates of male ducks (95.6%) and female ducks (97.1%), higher than that of the semi-confined method, although the difference was not significant. Body weight at 12 and 20 weeks of age of male and female ducks were 1,517.7, 1,450.8, 1,717.2 and 1,613.5 g/head, respectively, in the confined raising method. This keeping method showed higher results in body weight of male and female ducks compare to the semi-confined method with the body weight at the same period reached 1,432.7, 1,392.7, 1,641.0 and 1,560.5 g/head, respectively (P<0.05). Although, ducks raised in confined method have a higher body weight than semi-confined method, feed consumption in both males and females in confined method at 9-20 weeks of age significantly lower than the other method.Considering fertility factors, laying rate reached 59.77% and egg yield/52 weeks of laying reached 218.36 eggs/hen in confined raising method, higher than that in semi-confined raising method, reached 56.83% and 207.85 eggs/hen (P<0.05). Feed consumption/10 eggs factor in confined raising method was 3.36kg, lower than that in semi-confined raising method (P<0.05). Other criteria include egg weight, the rate of fertilized eggs, hatching rate/fertilized egg and hatching rate/total eggs input, respectively, reached 73.3g, 94.5%, 84.8% and 80.1% which were all higher than semi-controlled raising method with 72.7g, 94.6%, 85.1% and 80.4%, but not statistically significant. In terms of economic efficiency, keeping ducks under the confined method will give a higher profit than semi-confined method of 14.1%.

TTKHCNQG, CVv 345

  • [1] Trần Thanh Vân; Nguyễn Thị Thúy Mỵ; Phạm Đông; Phạm Văn Chinh (2018), Nghiên cứu khả năng sản xuất của vịt TC thương phẩm nuôi tại Thái Nguyên.,Tạp chí KHCN, Đại học Thái Nguyên, 177(1): 97-03.
  • [2] Nguyễn Đức Trọng; Hồ Khắc Oánh; Nguyễn Thị Minh; Lê Thị Phiên; Ngô Văn Vĩnh; Lê Xuân Thọ (2011), Kết quả nuôi giữ, bảo tồn quỹ gen vịt Đốm (Pất Lài) và vịt Bầu Bến tại Trung tâm Nghiên cứu vịt Đại Xuyên.,Tuyển tập các công trình nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật chăn nuôi vịt – ngan, Viện Chăn nuôi-TTNC vịt Đại Xuyên, trang 173-78
  • [3] Nguyễn Đức Trọng; Nguyễn Văn Duy; Hoàng Văn Tiệu; Vương Thị Lan Anh; Đặng Thị Vui; Nguyễn Thị Thúy Nghĩa; Đồng Thị Quyên; Hoàng Văn Trường (2011), Đặc điểm ngoại hình và khả năng sản xuất của con lai giữa vịt Cỏ và vịt Triết Giang.,Tạp chí KHCN Chăn nuôi. 33(12/2011): 1-8.
  • [4] Phạm Công Thiếu; Lương Thị Hồng; Hồ Lam Sơn; Trần Quốc Tuấn; Võ Văn Sự (2004), Kết quả theo dõi về ngoại hình và khả năng sản xuất của vịt Bầu Quỳ qua 3 thế hệ tại Viện Chăn nuôi.,Hội nghị Bảo tồn quỹ gen vật nuôi 1990-2004, Hà Nội tháng 10/2004, trang 169-78.
  • [5] Hoàng Tuấn Thành; Dương Xuân Tuyển (2016), Đặc điểm ngoại hình và khả năng sản xuất của vịt Hòa Lan nuôi bảo tồn tại Tiền Giang.,Tạp chí KHCN Chăn nuôi. 63(5/2016): 38-47.
  • [6] Nguyễn Thị Minh Tâm; Trần Long; Phạm Công Thiếu; Hồ Lam Sơn; Lương Thị Hồng (2006), Nghiên cứu khả năng sản xuất của giống vịt Kỳ Lừa nuôi tại Viện Chăn nuôi.,Báo cáo Khoa học Viện Chăn nuôi năm 2006.
  • [7] Nguyễn Quý Khiêm; Nguyễn Ngọc Dụng; Nguyễn Thị Nga; Phạm Thị Kim Thanh; Vũ Đức Cảnh; Phạm Thùy Linh; Đặng Thị Phương Thảo; Trần Thị Thu Hằng; Tạ Thị Hương Giang; Trần Thị Hà; Lê Xuân Sơn; Nguyễn Thị Tâm (2018), Khả năng sản xuất của vịt Star53 ông bà nhập nội.,Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 60(9B): 31-35.
  • [8] Nguyễn Đức Hưng; Lý Văn Vỹ (2009), Nghiên cứu sức sản xuất của vịt bố mẹ Cherry Valley Supper Meat (CV. SM2) nuôi trong điều kiện nông hộ tại Bình Định.,Tạp chí KH Đại học Huế, 55: 99-05.
  • [9] Đặng Vũ Hòa; Đặng Thúy Nhung; Nguyễn Đức Trọng; Hoàng Văn Tiệu (2014), Năng suất, chất lượng thịt của các tổ hợp lai giữa vịt đốm và vịt t14.,Tạp chí KHPT. 12(5): 697-03.
  • [10] Nguyễn Thị Mai Hoa; Lê Văn Duy; Vương Thị Lan Anh; Mai Hương Thu; Nguyễn Văn Tuấn (2019), Hiệu quả kinh tế của mô hình chăn nuôi giống vịt biển 15 - Đại Xuyên sinh sản.,Tạp chí KHCN Việt Nam, 61(2): 55-60.
  • [11] Đỗ Ngọc Hà; Nguyễn Bá Mùi (2018), Một số chỉ tiêu sinh trưởng của vịt Cổ Lũng nuôi lấy thịt tại Thanh Hóa.,Tạp chí KHNN Việt Nam, 16(8): 737-743.
  • [12] Bùi Hữu Đoàn; Hoàng Anh Tuấn; Nguyễn Hoàng Thịnh (2017), Đánh giá khả năng sản xuất thịt của vịt lai broiler F1 (Sín Chéng × Super M3).,Tạp chí KHKT Chăn nuôi, 216: 22-27.
  • [13] Nguyễn Ngọc Dụng; Lê Thị Nga; Trần Thị Thu Hằng; Phạm Thị Xuân; Khuất Thị Tuyên; Phùng Đức Tiến; Nguyễn Quý Khiêm (2015), Nghiên cứu một số dòng vịt chuyên thịt cho năng suất, chất lượng cao.,Tạp chí KHCN Việt Nam, 3(3): 33-37.
  • [14] Hoàng Hải Châu; Trần Thanh Sơn (2016), Nghiên cứu khả năng sinh trưởng của giống vịt thịt grimaud pekin star 53 nuôi tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.,Tạp chí Khoa học - Trường ĐH Quy Nhơn. 10(4): 85-94.
  • [15] Nguyễn Thị Lan Anh; Nguyễn Thị Hiệp; Hoàng Tuấn Thành (2018), Hiện trạng chăn nuôi vịt Hòa Lan tại một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.,Tạp chí KHCN Chăn nuôi. 91(9/2018): 61-71.