Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  30,178,093
  • Công bố khoa học và công nghệ Việt Nam

Thực vật học

Đặng Thị Lệ Xuân, Phan Thị Thúy Hằng, Tôn Thất Pháp, Hoàng Công Tín(2), Lương Quang Đốc, Phan Thị Thuý Hằng(1)

Ứng phó với độ mặn của các loài thực vật thủy sinh ngập nước Najas indica (Willd.) Cham.

Response to salinity of the submerged aquatic vegetation species Najas indica (Willd.) Cham.

Khoa học và công nghệ biển

2022

1

29-35

1859-3097

Najas indica (Willd.) Chăm được biết đến là một loài thực vật thủy sinh ngập nước ngọt. Tuy nhiên, loài này phân bố rộng rãi ở cả môi trường nước ngọt và nước lợ. Nghiên cứu này đã kiểm tra tỷ lệ sống, tốc độ tăng trưởng và hiệu suất hình thái của N. indica thu thập từ đầm Cầu Hai (Thừa Thiên Huế) đối với các xử lý độ mặn khác nhau trong một thí nghiệm mesocosm để xác định độ mặn tối ưu cho loài. Kết quả cho thấy ảnh hưởng đáng kể của các độ mặn khác nhau đến tỷ lệ sống, tốc độ tăng trưởng, sinh khối và các đặc điểm hình thái của N. indica. Loài này có thể sống sót và tiếp tục phát triển ở 0–15 ppt nhưng chết hoàn toàn ở 20 ppt và 25 ppt sau tuần đầu tiên của thí nghiệm kéo dài 8 tuần. Chiều dài lá có xu hướng ngắn hơn ở độ mặn cao hơn. Chiều dài chồi, số lóng và cành trên chồi, sinh khối đạt giá trị cao nhất ở 5 ppt và 10 ppt. Những điều này cho thấy rằng độ mặn tối ưu của N. indica nằm trong khoảng 5–10 ppt. Kết quả nghiên cứu có nhiều thông tin để giải thích sự thay đổi phân bố của loài thủy sinh N. indica có nguồn gốc nước ngọt trong môi trường đầm phá ở Việt Nam.

Najas indica (Willd.) Cham is known as a freshwater species of submerged aquatic vegetation. However, this species is widely distributed in both freshwater and brackish environments. This study examined the survival, growth rate and morphological performance of N. indica collected from the Cau Hai lagoon (Thua Thien Hue) against different salinity treatments in a mesocosm experiment to determine the optimal salinity for the species. The results showed significant effects of different salinities on survival rates, growth, biomass, and the morphological characteristics of N. indica. The species could survive and continue growing at 0–15 ppt but died completely at 20 ppt and 25 ppt after the first week of the 8-week experiment. Leaf length tended to be shorter in higher salinity. Shoot length, the number of internodes and branches per shoot, biomass reached the highest values at 5 ppt and 10 ppt. These suggested that the optimal salinity of the N. indica was at a range of 5–10 ppt. Study results were informative to explain the distribution change of the freshwater originated hydrophyte N. indica in lagoon environments in Vietnam.

TTKHCNQG, CVv 280